Một số nhân sĩ trí thức ở Hà Nội phải đứng ngoài đài Tưởng niệm các liệt sỹ cuộc chiến Việt – Trung 1979 để bái vọng
Nhiều báo chính thức của Việt Nam đã im lặng trong ngày 17/2, ngày đánh dấu 34 năm xảy ra cuộc chiến Việt-Trung ở biên giới phía Bắc, trong khi một đoàn tưởng niệm do một cựu bộ trưởng dẫn đầu bị “ngăn chặn” và “làm khó dễ” ở Thủ đô.
Tính tới cuối giờ chiều ngày Chủ Nhật, hàng loạt các tờ báo và trang tin điện tử chính thức của Việt Nam như Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Đài tiếng nói Việt Nam (Vov online), Thông tấn xã Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam (vtv.vn) cho tới các tờ báo khác như Sài Gòn Giải Phóng, Cựu Chiến Binh v.v… chưa thấy đưa tin, bài nào về ngày tưởng niệm cuộc chiến, cũng như chưa thấy có tin lãnh đạo đảng, nhà nước, hay quân đội thăm viếng, tưởng niệm sự kiện.
Tuy nhiên, cũng có tờ báo chẳng hạn như Bấm Thanh Niên online, đã dành một bài dài trên trang chính ôn lại sự kiện. Bài báo trên tờ này dẫn lời một vị tướng ngành công an, ông Lê Văn Cương, khẳng định việc cho rằng “nhắc đến cuộc chiến” có thể “kích động tinh thần dân tộc” là “ngụy biện.”
Tướng Cương cũng nói với tờ báo ông tin rằng cần đưa sự kiện cuộc chiến này vào sách giáo khoa của học sinh như một phần của “lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc” khi ông quan sát thấy rằng phần lớn học sinh phổ thông, kể cả “phần lớn 1,4 triệu sinh viên” cao đẳng, đại học “không biết gì về cuộc chiến này.”
Trong khi đó, một đoàn các nhân sỹ, trí thức và quần chúng có sự hiện diện của một cựu bộ trưởng và một cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh biên giới phía Bắc, đã không được phép mang vòng hoa với băng đen tưởng niệm vào hành lễ ở một đài tưởng niệm quốc gia ngay trước lăng cố Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đoàn tưởng niệm có sự tham gia của cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Tiến sỹ Nguyễn Quang A, ông Nguyễn Trung, ông Trần Đức Nguyên, Giáo sư Phạm Duy Hiển, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện, nhà văn cựu chiến binh Nguyễn Tường Thụy và các thành viên khác.
Họ đã không được phép chụp hình lưu niệm ở tượng đài với băng tưởng niệm ghi dòng chữ “Đời đời nhớ ơn các liệt sỹ chống Trung Quốc xâm lược” và “Tưởng niệm các liệt sỹ đã anh dũng hy sinh trên mặt trận chống quân Trung Quốc xâm lược.”
Tại Sài Gòn, một đoàn tưởng niệm khác với các trí thức, nhân sỹ, quần chúng, trong đó có sự hiện diện của một nguyên thứ trưởng và nhiều cựu quan chức đã tới một tượng đài anh hùng dân tộc để tưởng niệm.
Theo trang blog Basam, đoàn gồm 30 thành viên, trong đó có sự hiện diện của nguyên Thứ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường Chu Hảo, luật gia Lê Hiếu Đằng, Giáo sư Tương Lai và các thành viên khác, tuy “không bị lực lượng an ninh ngăn cản” như ở Hà Nội, nhưng cũng “có hành động gỡ bỏ một số băng rôn.”
‘Phải đăng ký trước’
Đoàn tưởng niệm ngày 17/2 trước tượng Trần Hưng Đạo ở Sài Gòn
Trong một video xuất hiện trên YouTube hôm Chủ Nhật, một nhân viên an ninh đã yêu cầu đoàn nhân sỹ, quần chúng tới thắp hương tưởng niệm trước đài liệt sỹ trên đường Bắc Sơn, trước Lăng Hồ Chí Minh phải “đăng ký trước” và “qua thủ tục kiểm tra vòng hoa”.
Họ cũng không được phép mang vòng hoa lễ cùng các băng đen, băng tưởng niệm vào làm lễ, hoặc quay phim chụp ảnh trong địa điểm này.
Một độc giả của BBC Việt ngữ cho hay, đầu ngày Chủ nhật, một đoàn quần chúng đã bị ngăn chặn khi tới viếng và làm lễ trước Tượng đài Liệt sỹ “Quyết tử cho Tổ quốc Quyết sinh” ở khu vực Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, với khu khuôn viên tượng đài bị các lực lượng an ninh rào chắn lại.
Một độc giả khác nhận xét với BBC về sự “im lặng” được cho là bất thường của truyền thông chính thức trong nước, trong ngày này.
“Không hề có một lời nhắc nhở nào trên các phương tiện truyền thông nhà nước Việt Nam trong ngày 17/2 này… Máu xương của nhân dân sao mà rẻ mạt vậy?” độc giả này đặt câu hỏi.
Vài ngày trước dịp kỷ niệm nổ ra cuộc chiến tranh của Trung Quốc tấn công Việt Nam ở biên giới phía Bắc mùa Xuân năm 1979, truyền thông mạng không chính thức của người Việt Nam trong và ngoài nước cũng đã xuất hiện một thông điệp kêu gọi người dân tưởng niệm sự kiện này.
Trên trang Facebook và một số trang mạng xã hội khác, các công dân mạng truyền nhau biểu tượng “hoa sim” với “màu tím” đặc trưng mà các thành viên mạng lựa chọn như một biểu trưng cho “biên giới” và kỷ niệm “cuộc chiến biên giới.”
Ngày 17/2/1979, Trung Quốc bất ngờ mở cuộc tấn công xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam, với sự tham gia được cho là của gần mười quân đoàn với hơn hai mươi sư đoàn tác chiến, với tổng quân số hàng chục vạn được hàng trăm xe tăng và hỏa lực yểm trợ.
Sau khi gặp phải sự kháng trả quyết liệt của các lực lượng Việt Nam, ngày 18/3 cùng năm, Trung Quốc tuyên bố rút quân sau khi đã “dạy cho Việt Nam một bài học.”
Cả hai bên đều tuyên bố giành lợi thế trong cuộc chiến đẫm máu vốn gây thêm các xung đột vũ trang trong hơn mười năm sau đó và làm hai nước gián đoạn quan hệ ngoại giao bình thường và niềm tin trong dài hạn.
Nguyễn Hưng Đạt
Tác giả và các sv Việt Nam du học tại Liên Xô
20 giờ tối thứ bảy 17.02.1979 ,tin Trung quốc ào ạt xâm lược Việt nam được chương trình Thời sự của Truyền hình Liên xô truyền nhanh như một tia chớp.Tại nhiều ký túc xá ,sinh viên Việt nam chạy rầm rập đến thông báo cho nhau tin dữ.Các bạn Liên xô và một số nước khác cũng đến các phòng có người Việt chia sẻ mối lo lắng này.Người Việt loay hoay mắc dây anten cho những chiếc Radio Rigonda lớn để thu sóng phát thanh từ quê nhà.
1.Anh chị em sinh viên Việt nam ngày ấy
Sáng Chủ nhật 18.02,một số sinh viên thuộc các trường Đại học tại Maxcva đã kéo nhau lên Đại sứ quán Việt nam và Phòng Quản lý sinh viên ở đường Bolsaya Piragovskaya và Dokuchaev .Tại đó,nhiều người muốn bày tỏ nguyện vọng của mình được quay về Việt nam cầm súng chiến đấu.
Ngày Thứ hai 19.02 là ngày sôi sục nhất với người Việt nam ở khắp Liên xô.Tất cả các trường có người Việt và nhiều nhà máy đã diễn ra nhiều cuộc mít tinh lớn chống Trung quốc xâm lược.Tại nhiều nơi,các biểu ngữ ‘’Ruki proch ot Vienam’’ (Không được đụng đến Việt nam),’ Doloi Kitaiskix Agressorov’(Đả đảo bọn Trung quốc xâm lược) đã được treo cao.Nhiều nơi,thậm chí cả trường phổ thông cũng mời sinh viên Việt nam đến thuyết trình và bày tỏ sự thông cảm sâu sắc.
2.Biểu tình trước cửa Sứ quán Trung quốc tại Maxcva
Thứ ba,20.02 một cuộc biểu tình lớn nhất chống sự xâm lược lược của Trung quốc được Thành đoàn Thanh niên Comxomol Maxcova tổ chức cho sinh viên Việt nam và bè bạn.Đúng 8.30 sáng,17 chiếc xe bus Chaika đón sinh viên ở các trường ĐH Năng lượng,Giao thông vận tải,Kinh tế Plekhanov,.. tập trung tại trường ĐH Tổng hợp Lomonosov để cùng đến trước cửa Đại sứ quán Trung quốc ở gần trường.Hai biểu ngữ màu đỏ thẫm,mỗi cái được căng ra bởi trên 20 người các nước ,nổi bật dòng chữ Nga : ‘Phản đối Trung quốc xâm lược Việt nam’,‘Trung quốc phải rút hết quân đội khỏi Việt nam’.
Sau khoảng 15 phút hô khẩu hiệu,các hộp các ton loại 25 lọ mực viết do người Nga chuẩn bị sẵn được khiêng ra. Sinh viên nhất loạt ném các hộp mực này lên cửa kính và tường của Đại sứ quán Trung quốc.Ném mạnh nhất là các sinh viên Châu Phi.Nhiều cửa kính vỡ tan,các bức tường loang lổ các loại mực.Không khí rất sôi sục.Trời rất lạnh,băng đóng dầy,nhưng nhiều người ném hăng quá nên cởi phắt áo khoác ngoài. Tiếng hò la,tiếng hô khẩu hiệu vang rền. Bạn N,nữ sinh dân tộc Tày vừa hô vừa khóc nức nở làm tinh thần của ta và Tây càng lên cao nữa.
Có một điều lạ là Sứ quán Việt nam như lệ thường,án binh bất động trước những đề nghị biểu tình hay kháng nghị của các tập thể sinh viên.Các chú Sứ đó có thái độ hệt như năm 1965-năm có cuộc biểu tình đầu tiên của sinh viên Việt nam phản đối Mỹ đổ quân vào Việt nam cửa Sứ quán Mỹ : thái độ lảng tránh.Thái độ của chính phủ Liên xô lúc này cũng khác truớc một trời một vực.
3.Nhớ lại cuộc biểu tình trước cửa Sứ quán Mỹ 1965
Lúc đó,hưởng ứng lời kêu gọi của một nhóm cán bộ Đoàn Việt nam tại Lenigrad gần hai trăm bạn từ khắp các nơi đã kéo về Maxcva,tập hợp phía bên kia đường Smolen,đối diện Sứ quán Mỹ hô khẩu hiệu phản đối.Cảnh sát Nga phi ngựa xông thẳng vào đám đông.Trong lúc lộn xộn,một chỉ huy cảnh sát bị vật nhọn bắn ra từ dây cao su làm vỡ nhãn cầu.Họ điên tiết như một bầy thú,bắt đi toàn bộ anh chị em .26 người bị đưa vào đồn công an.Trong số bị đánh đập dữ dội nhất có anh Th. Anh này tự nhận là người tổ chức biểu tình,và chỉ duy nhất anh ta thôi.Nhưng cảnh sát Liên xô không tin và cho rằng có bàn tay của Sứ quán Việt nam nên bắt anh phải ký biên bản ép cung như vậy.Không khuất phục được anh Th ,họ cho anh này đội mũ sắt rồi xoáy bu long ép chặt 2 bên thái dương đến lồi mắt ra.Số còn lại các xe tải chở anh chị em ra thẳng một nông trường ngoại ô rồi đẩy họ xuống tít ngoài cánh đồng,xa trạm xe bus.Những người cảnh sát hèn hạ này thu tất cả giầy của mọi người và đạp họ xuống đất.Anh chị em phải cởi áo panto ra cuốn xuống chân làm giày.Gần hai trăm người thất thểu,ngã dúi dụi trong băng tuyết mãi mới về được thủ đô.Nhiều người ốm nặng phải đi viện.
Nhưng ngày 20.02.1979 này lại khác.
4.Mấy ngày sau cuộc biểu tình đó
Chính phủ Liên xô tổ chức cuộc biểu tình này cho người Việt và động viên các sinh viên ngoại quốc khác tham gia.Không những vậy,công an gác cửa Sứ quán Trung quốc cũng như công an thành phố tảng lờ,không đáp lại những cú điện thoại kêu cứu và phản đối của Sứ quán Trung quốc.Báo chí thậm chí còn nhắc lại khiêu khích và khủng bố ngoại giao trắng trợn mà phía Trung quốc từng làm với Liên xô.
Mấy hôm sau anh em đi qua Sứ quán Trung quốc để xem mực loang lổ thì vẫn thấy một số phòng treo chăn chăng kín cửa sổ.Chắc chắn rằng phía Liên xô đã mặc kệ không cho người đến sửa nên Sứ quán đó phải bịt chăn trong cái lạnh dưới -10oC.
Từng ngày,anh chị em mong ngóng tin từ Tổ quốc.Tin chiến thắng làm nức lòng mọi người qua thông báo của chương trình phát thanh dành cho người Việt nam ở xa Tổ quốc và báo chí Nga.Tuy nhiên những thiệt hại và mất mát to lớn làm người Việt hết sức lo âu.Hàng ngày tin chiến thắng không thể che lấp thực tại là quân Trung quốc không bị chặn lại sau khi vào sâu 15km qua biên giới,mà đã chiếm được toàn bộ Lào cai và thị trấn Sapa.Mỏ Apatit bị san bằng.Quân Trung quốc đã vào sâu tới 60km và đang tiến về phía Nam.
Theo lời kể lại,tấm gương của kỹ sư Nguyễn Bá Lại làm mọi người hết sức cảm động.Anh Nguyễn Bá Lại là cựu sinh viên trường Đại học Mỏ- Địa chất Maxcva nằm ở khu vực Yugo-Zapadnaya của Thủ đô. Là một học sinh chăm chỉ và sáng tạo,sau khi tốt nghiệp,anh Lại lên tận miền rừng núi Lào cai công tác tại mỏ Apatit.Sáng 17.2.1979 khi những tên xâm lược tràn vào đốt phá mỏ,anh đã anh dũng cầm súng tiêu diệt quân thù. Sau khi tiêu diệt nhiều tên bành trướng,một quả lựu đạn đã rơi đúng hầm của anh.Nguyễn Bá Lại nằm đè sấp lên nó để cứu 6 anh em đang núp trong hầm.
Trường ĐH đã đặt ảnh viền đen của anh tại nơi trang trọng.Hàng trăm sinh viên Việt nam đã kéo đến viếng.
5.Chính phủ Liên xô phản ứng ra sao
Không chỉ tổ chức các cuộc mít tinh khắp nơi trong nước,ngày 19.02.1979 chính phủ Liên xô đã ra tuyên bố phản đối chính phủ Trung quốc.Bản tuyên bố ca ngợi tinh thần anh hùng của nhân dân Việt nam ,cảnh cáo những kẻ đang lèo lái chiến tranh Bắc kinh cũng như tái khẳng định nhiệm vụ thực thi Hiệp định Hữu nghị và hợp tác Xô-Việt./1/.Tờ Pravda,phát ngôn chính thức của ĐCS Liên xô không ngần ngại nêu ra một cuộc tấn công vào phía Bắc Trung quốc ,mở màn là các chiến dịch hủy diệt Lopno và các Trung tâm công nghiệp-quân sự Bắc Trung quốc
6.Thái độ của Mỹ và các nước phương tây thân Mỹ
Liên xô đã đưa Nghị quyết phản đối sự xâm lược Việt nam của Trung quốc ra Đại hội đồng Liên hiệp quốc /2/.Tuy nhiên,trái với những động thái đã từng làm như vậy của Mỹ khi Việt nam đưa quân vào Campuchia,Mỹ và đa số các nước phương Tây tại đó tảng lờ trước đau khổ của hàng triệu người Việt nam đang gánh chịu.Bắc Triều tiên công khai hưởng ứng cuộc xâm lăng đó.
Qua báo chí,cũng như tin tức của các cán bộ từ Âu-Mỹ quá cảnh qua Maxcva về nước,thái độ của Mỹ là hết sức tiêu cực.Mỹ hoàn toàn ủng hộ cuộc tấn công xâm lược này bằng cách cung cấp các không ảnh và tin tức tình báo cho Trung quốc về các cuộc chuyển quân của Việt nam và Liên xô trên lãnh thổ của mình.Qua đó,Mỹ khẳng định với họ rằng không có khả năng Liên xô mở cuộc tiến công vào phía Bắc Trung quốc.Những động thái quân sự cho thấy,mặc dù Đài phát thanh Tiếng nói Việt nam liên tục thông báo đang có 7 quân đoàn Trung quốc tập trung tại biên giới phía Bắc của họ nhưng không có dấu hiệu các cuộc điều quân lớn từ Campuchia để ứng phó.Anh em sinh viên nói với nhau:’’ Như vậy là Mỹ lại giúp Tàu xâm lược Việt nam lần thứ hai .Mới 5 năm trước nó ngơ đi để cho thằng khuligan này chiếm đảo,bây giờ nó chủ động giúp tên lưu manh đó thịt đất’’.Anh em ĐH Lômnosov đã viết kiến nghị gửi Sứ quán Mỹ bằng tiếng Nga nhưng không thấy hồi âm.
7.Trung quốc rút quân
Qua báo chí tại Liên xô,đặc biệt là tờ Time của Mỹ và tin tức từ Việt nam,Liên xô đã thành lập cầu hàng không vận chuyển trang thiết bị đến Việt nam/3/ và chuyển quân từ các nơi lên phía Bắc.Có tin 2 tiểu đoàn tên lửa Grad,loại pháo phản lực đã tiêu diệt nhiều lính Trung quốc trong chiến tranh Xô-Trung 10 năm trước đó đã sắn sàng hủy diệt địch.
Đột ngột,Trung quốc tuyên bố rút quân ngày 16.03.1979 sau khi đã sát nhập một số cao điểm vào bản đồ của mình.Họ phá hủy 2 thành phố ,45 ngàn ngôi nhà,900 trường học,428 bệnh viện,25 mỏ,55 công ty lớn.Số người bị giết gồm 20 ngàn bộ đội ,45 ngàn dân thường Việt nam.Trung quốc tuyên bố mất 10 ngàn lính Quân giải phóng Trung hoa.
8.Còn đó nỗi băn khoăn nhức nhối.
Một điều băn khoăn và khó hiểu nhất được nhiều người đặt ra từ đó : Tại sao Trung quốc lại có thể dễ dàng triệt thoái được 300000 lính và chừng đó dân binh mà không bị tấn công tiêu diệt? Gần như đa số các chiến thắng trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược Trung hoa của Việt nam là đều đánh vào lúc quân họ rút lui? Một vài sư đoàn rút còn che dấu được,đằng này nhiều quân đoàn cùng rút trên một diện tích rộng lớn,núi rừng hiểm trở,đường độc đạo cheo leo núi-vực ,tại sao Việt nam không đánh? Tại sao pháo phản lực chiến dịch từ Liên xô không khai hỏa ?
Cho đến nay người viết cũng như các cựu sinh viên cũ vẫn tìm kiếm câu giải đáp nhưng chưa có thông tin cụ thể.
Những ngày sôi sục căm hận đó mãi mãi khắc sâu trong tâm khảm những người cựu sinh viên Việt nam tại đó.Họ đã gửi hàng trăm lá đơn tình nguyện và đề nghị chính phủ thực hiện lời hứa của mình mới ký mấy tháng trước với Việt nam nhưng Liên xô không trực tiếp động thủ.Họ giúp và cho chứ không trực tiếp tham chiến.Có nhiều sự giải thích qua báo chí .Nào là Liên xô thấy Việt nam đánh được thì chỉ giúp của thôi chứ không cần người.Nào là cũng như năm 1969,chính quyền Ních xơn tuyên bố sẽ đánh đòn hạt nhân vào hàng trăm thành phố lớn của Nga nếu Liên xô đánh vào Trung quốc.Nào là hai thằng đó nó thỏa thuận ngầm với nhau là bạn và chống Nga từ 1965 nên nay đánh thằng này thì thằng kia sẽ đánh lại v.v.Nhưng với anh em cựu sinh viên Việt nam,các điều đó,dù là sự thật đi chăng nữa cũng không thỏa đáng.Nó đánh mất vị thế của Liên xô trước hết về lòng tin của các dân tộc khác,sau đó tự bộc lộ cũng như đẩy nhanh đà suy thoái của chính mình. Lòng tự băn khoăn như thế,nhưng cũng không phủ nhận được công lao của người Nga giúp Việt nam trong năm 1979.Còn mãi hình ảnh người nhiếp ảnh già về hưu đã từng sang Việt nam nay lặn lội đến Sứ quán Việt nam xin sang đó chiến đấu hay làm bất cứ việc gì có ích.
Kỳ sau : Cầu hàng không và hàng hải chống chiến tranh xâm lược của Trung quốc.
Tác giả gửi cho Quê choa
…………………………………………………….
Tham khảo
- Tuyên bố của Chính phủ Liên xô 19.02.1979
- Các chiến dịch giúp đỡ Việt nam của hải quân Liên xô. Tư liệu Quân đội và Hải quân Liên xô .Maxcva .1979.
Thanh Thảo
Lời dẫn của Vũ Thị Phương Anh (tại đây) : Tổ quốc và toàn dân luôn ghi công các anh hùng, liệt sĩ chống Trung Quốc xâm lược, cho dù chỉ là lặng lẽ trong lòng, hoặc nói ra bằng lời và đưa ra đến công chúng. Như bài thơ của nhà thơ Thanh Thảo mà tôi vừa tìm thấy trên mạng hôm nay.
Nhà thơ Thanh Thảo kết thúc bàithơ bằng câu hỏi: “Nên gọi cái này là gì nhỉ?” Nhưng thực ra là ông đã trả lời rồi: Đó chính là sự phản bội.
Người Việt Nam vốn vẫn tự hào vì mình là những con người chung thủy. Chúng ta sẽ không bao giờ phản bội. Chúng ta sẽ không quên ngày 17/2.
I
thú thật, có một nhà lãnh đạo Việt Nam
ngày trước tôi không mấy yêu quí:
đó là Tổng bí thư Lê Duẩn
bây giờ biết những điều ngày xưa chưa biết
bỗng thấy quí Ông vô cùng
dù đời Ông không ít sai lầm
thì đó vẫn là lãnh tụ duy nhất chống Trung Quốc bành trướng từ trong máu
người đầu tiên thoát Hán
người nhìn thấy dã tâm của “anh bạn lớn” từ rất sớm
người thề quyết chiến với một triệu rưỡi quân Tàu
ngay lúc họ mới tung chiêu “nạn kiều”
II
tháng 6/1978 tôi có mặt ở bến Nhà Rồng
chờ xem chiếc tàu Trung Quốc đón “nạn kiều”
rất nhiều người đứng trên bến tàu mặt căng thẳng
không biết họ đang nghĩ gì
tôi cũng không biết mình đang nghĩ gì
chỉ biết lúc ấy
chưa ai nghĩ có một ngày 17/2/1979
Lê Duẩn đã nghĩ
vậy mà ngày 17/2/1979
Ông vẫn bất ngờ
III
những ai đã khiến Tổng bí thư ngày ấy bất ngờ ?
trả lời câu hỏi này, là tìm ra kẻ phản bội
IV
chỉ một gã thượng tá Tám Hà chiêu hồi
đủ cho cả đợt 2 Mậu Thân tơi bời
V
xưa nay, tởm nhất là bọn phản bội
nhưng đáng sợ nhất, cũng là chúng
VI
17/2/2013
những “cuộc chiến tranh mềm”
những lệnh miệng khuất lấp từ đâu đó
những ấp ứ trong cổ
báo in sợ viết hai chữ “Trung Quốc” như sợ phỏng lửa
giặc rập rình ngoài ngõ
đêm thanh vắng “người nhái Tàu” trồi lên từ chân sóng Trường Sa
cười dọa và giết
trong nhà cứ ăn nhậu vô tư
nên gọi cái này là gì nhỉ?
17.2.2013
………………………………………….
Nguyễn Thông: Nhà thơ Thanh Thảo gửi trực tiếp bài này cho tôi khi thời gian đã bước qua ngày 17.2.2013, tức là chỉ ít phút sau khi anh viết xong những dòng thơ trên. Chân thành cám ơn nhà thơ Thanh Thảo, người mà tôi rất kính trọng, quý mến
…………………………………….
Nguyễn Ngọc Giao *
Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX
Hiệp định Paris “về kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam” đã được kí kết ngày 27 tháng giêng năm 1973 tại đại sảnh đường Trung tâm Quốc tế Hội nghị ở đại lộ Kléber. Cách Khải hoàn môn vài trăm mét, tòa nhà này thường được người dân Paris gọi bằng cái tên lịch sử là Hôtel Majestic. Trong Thế chiến lần thứ hai, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, Khách sạn Majestic trở thành trụ sở của bộ tư lệnh quân đội Đức quốc xã. Sau ngày giải phóng, Bộ ngoại giao Pháp sử dụng cơ ngơi này làm trung tâm hội nghị quốc tế. Trong gần năm năm trời, từ ngày 13.5.1968 đến ngày 27.1.1973, hội trường là nơi diễn ra cuộc thương lượng chính thức giữa Việt Nam và Mĩ. Hơn một tháng sau ngày kí kết Hiệp định Paris, Khách sạn Majestic cũng là nơi họp Hội nghị quốc tế về Việt Nam với sự tham gia của tổng thư kí Liên Hợp Quốc Kurt Waldheim và phái đoàn đại diện của 12 chính phủ (4 bên tham gia Hội nghị Paris : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hoa Kì, Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN, Việt Nam Cộng Hòa ; 4 đại cường thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ : Pháp, Anh, Liên Xô, Trung Quốc ; 4 nước thành viên Ủy ban giám sát quốc tế : Ba Lan, Canada, Hungary, Indonesia). Gần 20 năm sau, đây cũng là nơi diễn ra Hội nghị quốc tế về Campuchia (1991).
Ngày nay, Majestic lại trở thành khách sạn, một trong mấy “palace siêu hạng” của Paris, nhưng đã đổi chủ. Cũng như đội bóng đá PSG (đội này vừa sắm David Beckham), chủ nhân là người vương quốc dầu hỏa Qatar. Bốn mươi năm đã trôi qua, số người Việt Nam ra đời sau ngày 27.1.1973 dễ lên tới hai phần ba dân số Việt Nam. Từ đó, bao nhiêu biến cố đã dồn dập xảy ra : ngày giải phóng miền Nam (đối với cả triệu người là ngày “mất nước”, hay “quốc hận”), cải tạo xã hội chủ nghĩa, trại “cải tạo”, chiến tranh với Pol Pot, chiến tranh với Trung Quốc, liên minh Washington – Bắc Kinh bao vây, cấm vận, thuyền nhân, khủng hoảng, rồi đổi mới, mở cửa, tự do hóa về kinh tế, thối nát tham nhũng tràn lan, đàn áp chính trị, khối Liên Xô sụp đổ, khấu đầu với Trung Quốc, khủng hoảng toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị… , cái mốc Hiệp định Paris 1973 bị đẩy xa vào quá vãng, hai trong bốn bên ký kết Hiệp định — Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN và Chính phủ Việt Nam cộng hòa — đã biến mất trên bản đồ chính trị địa lý Việt Nam.
Điều đáng quan ngại, thậm chí bi thảm, là Việt Nam trở thành một dân tộc không có ký ức lịch sử, ít nhất về lịch sử một trăm năm gần đây. Thử hỏi chín mươi triệu người Việt Nam, ai muốn tìm hiểu lịch sử thế kỉ XX của nước mình, thì kiếm đâu ra sách ? Tủ sách sử học Việt Nam đã có những công trình giá trị về khảo cổ học, về thời Lý, Trần, Lê. Nhưng từ thời Nguyễn trở lại đây, tuyệt nhiên không. Cách đây hơn bốn năm, Hội sử học Việt Nam đã tổ chức hội thảo về nhà Nguyễn tại Thanh Hóa. Cho đến nay, báo chí “lề phải” vẫn không được nói tới cuộc hội thảo khoa học này, chỉ vì những mặt tích cực của nhà Nguyễn được nêu lên ở hội thảo không phù hợp với “đánh giá của Đảng về nhà Nguyễn”. Lịch sử Việt Nam thế kỉ XIX và XX là vùng cấm đối với giới sử học người Việt, là vùng “khai thác độc quyền” (nói cho chính xác : độc quyền không cho khai thác) của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Hệ quả của quy định này là : sách giáo khoa lịch sử chỉ sao chép những câu kinh kệ của “sử đảng”, nghĩa là một cách viết sử bóp méo, đầy lỗ hổng (chỉ cần đọc những trang “sử” ấy về ĐCS Đông Dương và Nquyễn Ái Quốc từ năm 1930 đến đầu năm 1941). Hệ quả của hệ quả : một học sinh có suy nghĩ, một độc giả có chút ít tinh thần phê phán, chỉ có thể rút ra một kết luận, là “không thể tin được” những thứ sử sách chính thống ấy (mặc dù trong đó không thiếu những khẳng định đúng đắn tuy sơ lược), và nguy hại hơn nữa, chỉ cần nhẹ dạ một chút, là sẵn sàng tin những khẳng định ngược lại. Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX.
Giữa chốn mịt mù ấy, hai tập “Giải Phóng” và “Quyền Bính” của Bên Thắng Cuộc (BTC) mà nhà báo Osin Huy Đức xuất bản qua mạng đã nhanh chóng đi tới (nếu không tới mắt thì tới tai) hàng trăm ngàn, có lẽ cả triệu, người Việt Nam, từ nam chí bắc, từ Orange County đến Tokyo, Melbourne, qua Washington DC, Paris, Berlin, Moskva… với tốc độ và khả năng quảng bá của internet. Đây không phải là một công trình nghiên cứu sử học (những ai phê phán nó vì nó không phải là tác phẩm sử học, chẳng qua là cố ý đâm giáo vào cối xay gió), mà một pho sử liệu, chứng từ trung thực, phong phú, đồ sộ, mà chưa bao giờ một nhà sử học hay một nhà báo điều tra, đã thu thập, phỏng vấn, ghi chép được, liên quan tới thời gian phần tư cuối của thế kỉ XX. Đó là thời gian mà đất nước, xã hội và mỗi con người Việt Nam (còn sống) đã trải qua những đổi thay ghê gớm, sâu sắc, dư chấn của những cuộc “động đất lịch sử” ấy bây giờ vẫn chưa dứt mà vẫn còn sẽ tiếp tục. Cho nên, sự đánh giá BTC sẽ dao động giữa hai thái cực : một mặt là “ngợp” trước những thông tin chưa từng thấy hoặc rất ít người biết, mặt khác là “thất vọng” hay “mong mỏi” những tác phẩm của tác giả hay của người khác về những giai đoạn, những sự việc mà BTC chưa đề cập. Đây là tôi chỉ nói tới nhận định của người đọc muốn khách quan tiếp nhận công trình này. Còn phản ứng của độc giả, phản ứng thiện cảm (với ít nhiều bảo lưu) của tuyệt đại đa số, cũng như phản ứng Pavlov của các “dư luận viên” mà nhà nước đang huy động để “đánh Huy Đức” và của các chuyên gia “chống cộng tới chiều” đã tổ chức biểu tình ở Khu Bolsa, lại là một chủ đề khác, đối tượng của một điều tra xã hội học, mà nếu làm được, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều về não trạng Việt Nam ngày nay. (xin xem bài của Hòa Vân : Bên Thắng Cuộc và dư luận).
Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi sẽ không làm được việc nào trong hai việc kể trên (nhận định về tác phẩm, phân tích phản ứng công chúng). Chỉ xin đề cập tới một vấn đề, liên quan tới Hiệp định Paris và cuốn sách BTC mà kỉ niệm 40 năm và xuất bản lại trùng hợp trong thời gian. Vấn đề ấy cũng là nền tảng cho phần lớn các cuộc tranh luận và sự mâu thuẫn giữa các lập trường. Đó là : tính chất cuộc chiến tranh Việt Nam (dù ta quy định thời gian là 1945-1975, hay 1955-1975, hay 1960-1975). Chiến tranh giải phóng, nghĩa là chiến tranh giành độc lập, thống nhất ? Hay nội chiến (Quốc Cộng) ? Hay chiến tranh ủy nhiệm (War by Proxy) nằm trong bối cảnh thế giới Chiến tranh lạnh ?
Thật ra, trong một cuộc đối thoại bình tĩnh hay khi ta bình tâm tự vấn, chắc ít ai phủ nhận một trong ba yếu tố kể trên (chiến tranh giải phóng, chiến tranh ủy nhiệm, nội chiến), nhưng khi bàn tới bản chất của từng yếu tố, và nhất là quan hệ tương tác của ba yếu tố ấy (cái nào là chính, là quyết định…) thì chắc chắn là mỗi người một ý (có khi ý kiến của một người cũng thay đổi theo thời gian). Ngày nào chưa có một cuộc thảo luận thật sự, trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau đi tìm sự thật, thì khó xác định và “khoanh” lại những khác biệt không thể hóa giải. Và chỉ có ý muốn chung là xây dựng trong sự tôn trọng khác biệt mới cho phép chúng ta vượt qua những khác biệt để đi tới tương lai.
Trong tinh thần ấy, xin nêu lên một vài suy nghĩ và nhận định, nhằm đóng góp vào cuộc thảo luận chung :
Chiến tranh giải phóng 1945-1975 ?
Giải phóng gắn liền với tự do, người chiến thắng năm 1975 lại là cộng sản, nên dễ hiểu là nhiều người dị ứng với cụm từ “chiến tranh giải phóng” mà từ khước mọi cuộc đối thoại. Chính xác phải nói “chiến tranh giải phóng dân tộc”, đối tượng của sự giải phóng là dân tộc, mục tiêu của nó là chấm dứt sự thống trị của nước ngoài. Chiến tranh giải phóng thắng lợi, dân tộc tự do, nhưng người dân không nhất thiết được tự do : điều này đã từng thấy trong nửa sau thế kỉ XX tại các nước thuộc địa, trong đó có nước ta. Phân biệt tự do cho dân tộc và tự do cho công dân, chúng ta mới bình tĩnh đọc câu nói ý nhị của Huy Đức trong lời mào đầu tập 1 : “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 — ngày nhiều người tin là Miền Bắc đã giải phóng Miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc”. Tác giả chơi chữ, nhờ đó mà nhiều người hả hê, không ít người bực bội, nhưng đằng sau sự chơi chữ là một sự thật khó chối cãi (chỉ lấy một thí dụ cụ thể : tự do báo chí ở Sài Gòn (mặc dầu chính quyền Thiệu chuyên nghề “hốt cắt đục”) đã biến mất sau ngày 30.4.75, về sau đã nhen nhúm một chút trên báo chí cả nước, bắt đầu từ những tờ báo Thành phố như Tuổi Trẻ). Tất nhiên, điều này không liên quan tới nền độc lập dân tộc mà chúng ta cần trở lại để bàn về bản chất cuộc chiến tranh.
Có người thừa nhận rằng cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) là chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại cuộc tái chiếm có tính chất thực dân chủ nghĩa của quân đội Pháp, nhưng cuộc chiến tranh sau 1955 là nội chiến Nam Bắc, dù không phủ nhận vai trò và sức nặng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến này.
Cả hai vế đều có chỗ không ổn. Đúng là chiến tranh 45-54 là chiến tranh giải phóng, nhưng ta không nên quên rằng khi Điện Biên Phủ được giải phóng, hai bên chiến tuyến phần lớn là người Việt Nam : bên chiến thắng là Quân đội Nhân dân Việt Nam (có cố vấn người Trung Quốc, nhưng họ chỉ là cố vấn, và không có vai trò quyết định : ngày 25 tháng giêng 1954, khi Võ Nguyên Giáp quyết định “rút pháo ra”, ông đã cưỡng lại ý kiến của đoàn cố vấn Trung Quốc), bên thất trận 2/3 là người Việt, 1/3 người Âu Phi. Vũ khí và trang bị của bên thất trận là của Mĩ, vũ khí bên thắng trận là của Liên Xô (qua Trung Quốc), Trung Quốc và… Mĩ (hơn một nửa vũ khí thả dù sau ngày 13.3.54 rơi vào tay kháng chiến). Còn cuộc chiến tranh thứ nhì, có yếu tố nội chiến (chúng tôi sẽ phân tích ở một phần dưới), nhưng khách quan mà nói, vai trò của Hoa Kì liên tục từ 1950 đến sáng ngày 30 tháng tư 1975 không thể chối cãi là vai trò của một siêu cường, muốn quyết định số phận của Việt Nam, thông qua những chính quyền mà họ đã tạo dựng và khi cần thiết thì trừ khử, bãi bỏ hay bỏ rơi (mà Mĩ bỏ thì chỉ có rơi, không thể gì khác).
Do đó, cuộc chiến tranh 1945-1975, dù có yếu tố chiến tranh ủy quyền, chiến tranh ý thức hệ, và nội chiến, vẫn liên tục từ đầu chí cuối, là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà mục tiêu tối hậu là độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia. Thừa nhận điều đó không có gì sỉ nhục đối với những người ở “bên thua cuộc” nếu lí do khiến cho họ đứng bên này chiến tuyến, chống lại những người chống lại ngoại bang, là lý tưởng tự do, dân chủ thực sự, điều mà rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa hề mang lại. Phủ nhận điều đó, sợ rằng bản thân những người tuyên bố ra lời cũng không thuyết phục được chính mình, mà mãi mãi hận thù “Việt cộng cướp nước”, oán hận “Mỹ bỏ rơi”.
Nội chiến ?
Đối với quan điểm tuyên truyền “chính thống” của Đảng Cộng sản Việt Nam, “nội chiến” là một điều cấm kị. “Hai mươi năm nội chiến từng ngày”, câu hát của Trịnh Công Sơn đã khiến cho tác giả nhiều phen điêu đứng sau 1975, cho đến nay vẫn bị cấm. Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là tay sai của Pháp và Mỹ, họ được sử dụng để phục vụ cho chính sách của Pháp, rồi của Mỹ, rồi khi nào họ không phục vụ như ý nữa, thì bị loại bỏ không thương tiếc, dù khi bị loại bỏ rồi, sẽ có những hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn (trường hợp Ngô Đình Diệm). Điều đó khó ai phủ nhận, nhưng với bộ máy tuyên truyền, họ phải được mô tả như những tay sai đơn thuần, những con rối không xương sống. Lối tuyên truyền đơn sơ thô bạo đó sẽ phản tác dụng khi nó gặp phải những thực tế mà nó không thể lí giải. Sự kháng cự của Nguyễn Văn Thiệu trước ngày khai mạc Hội nghị Paris (cuối năm 1968, đầu năm 1969), hay cuối năm 1972, khi hai phái đoàn Lê Đức Thọ – Xuân Thủy và phái đoàn Kissinger đã đi tới thỏa thuận về văn bản Hiệp định Paris, bỗng nhiên được nhìn nhận như bằng chứng của sự “dũng cảm” (chữ dùng của Huy Đức). Tất nhiên rồi, “dũng cảm” không phải là thuộc tính độc quyền của “ông chủ” (khỏi cần kể ra đây những thí dụ về những ông chủ thiếu dũng cảm) : tay sai có thể dũng cảm phi thường khi thấy ông chủ bỏ rơi.
Nói chuyện nghiêm chỉnh hơn : ý thức hệ quả nhiên đã chia rẽ hàng ngũ những người Việt Nam mong muốn độc lập, trong đó có ý thức hệ “quốc-cộng”. Tôi để hai chữ “quốc-cộng” trong ngoặc kép, vì hai lẽ : tuyệt đại đa số, nếu không nói là tất cả, những người Việt Nam cộng sản là những người quốc gia chủ nghĩa (nhiều khi quá khích), còn trong hàng ngũ những người tự nhận hay được xếp là “quốc gia”, những người phản quốc hơi bị nhiều. Khó ngược dòng thời gian để kết án ai là người bắt đầu chạy theo ý thức hệ, bỏ quên quyền lợi quốc gia. Người chống cộng thường đổ thừa cho “chủ nghĩa cộng sản ngoại lai”, quên rằng nếu chủ nghĩa cộng sản được du nhập vào Việt Nam sau năm 1920 (khi Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, tháng 12.1920), thì chủ nghĩa chống cộng đã được du nhập vào nước ta vài năm trước đó (ai không tin, cứ tìm đọc tạp chí Nam Phongtừ năm 1917).
Xung đột ý thức hệ và nội chiến tồn tại khi ở hai bên chiến tuyến có sự tham gia của những bộ phận quan trọng của dân tộc hay giai cấp, đẳng cấp, với những chính kiến đối chọi nhau. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ năm 1945 ở Nam Bộ và từ cuối năm 1946 trên toàn quốc, không hề có yếu tố nội chiến (mặc dầu đã có những cuộc thanh trừng, tàn sát lẫn nhau giữa các phe phái). “Nam Kỳ tự trị” năm 1946, “Quốc gia Việt Nam” năm 1948 (với lá cờ vàng ba sọc đỏ) không đại diện cho ai khác hơn là thế lực thực dân và vài nhúm chính khách bị dư luận quốc dân khinh miệt. Vậy thì nội chiến ở Việt Nam bắt đầu bao giờ và như thế nào ? Sẽ cần những công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc để làm sáng rõ vấn đề, nhưng ở đây và bây giờ, người viết bài này muốn khẳng định, với tất cả tinh thần trách nhiệm : từ chính sách mao-ít của Đảng cộng sản Việt Nam sau năm 1950.
Với chủ trương quy định thành phần giai cấp một cách thô bạo (có thể nói : lưu manh, ít nhất trong cách thực hiện) trong cuộc chỉnh huấn quân đội, chỉnh đảng, rồi cải cách ruộng đất, ĐCSVN đã đi ngược lại chính sách đoàn kết dân tộc chống thực dân đế quốc, xua đẩy sang hàng ngũ đối phương các thành phần trung phú nông, tiểu tư sản, tư sản, nhân sĩ, trí thức…
Chính đường lối “tả khuynh” theo kiểu Stalin và Mao thực hiện từ năm 1951 này đã “bưng mâm bầy cỗ” cho Mĩ một cơ sở xã hội rộng rãi mà họ chưa từng dám mơ ước : gia đình một ông quan chỉ được tiếng “chống Pháp” vì Pháp đã không chọn mà chọn người khác làm thượng thư bộ Lại, bỗng trở thành nguyên thủ một “quốc gia” với đầy đủ những thành phần xã hội thượng lưu và trung lưu mà phần lớn (nếu không nói là đa số) đều ngả về “phe kháng chiến” nhưng lại bị chính kháng chiến xua đẩy !
Trong những người, năm 1955-56 ở Sài Gòn, không thấy được điều này, may thay, có ông Ngô Đình Diệm. Với tầm nhìn bảo thủ của một ông quan xa lạ với thế kỉ XX (với cả xu hướng đổi mới của Giáo hội Công giáo dẫn tới Công đồng Vatican II), xa lạ với xã hội Việt Nam, ông tổng thống của “đệ nhất cộng hòa” đã tự cưa chân ngai vàng của mình, đàn áp những người kháng chiến, đàn áp cả những giáo hữu Nam Bộ thuộc xu hướng tự do… Ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sở dĩ đã tập hợp được khá rộng rãi các thành phần xã hội ở miền Nam, liên kết được với phong trào Phật tử, khơi dậy được phong trào đô thị… có thể nói chính là nhờ chính sách ngu muội của các chính quyền Sài Gòn hơn là nhờ sự sáng suốt của Đảng cộng sản.
Nói như vậy có cường điệu lắm không ? Tôi chỉ xin nêu ra hai thí dụ để bảo vệ cho luận điểm này : một điều may thay không xảy ra, và một điều không may đã xảy ra. Điều không xảy ra : đầu năm 1967, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bí thư Trung ương cục Miền Nam, đã có chủ trương phát động “cải cách ruộng đất toàn diện và triệt để” (với ý đồ dễ đoán : phát huy sức mạnh của nông dân, chủ lực của cách mạng, chuẩn bị tổng tấn công năm 1968). Những cán bộ Ban nông thôn (xem hồi kí của ông Nguyễn Thành Thơ) và những người như ông Trần Bạch Đằng kiên quyết phản đối, Cụ Hồ gửi điện vào “can chú Thanh”, cuối cùng tướng Thanh đã từ bỏ ý nghĩ này. Một ý nghĩ rất “triệt để mao-ít”. Các nhà văn chính trị dự tưởng (politique fiction) có thể hình dung ra tình hình Việt Nam sau cuộc “cải cách ruộng đất triệt để và toàn diện” ở miền Nam năm 1967 với hơn nửa triệu quân Mĩ, Úc, New Zealand. Còn điều đã xảy ra (khi đất nước vắng bóng quân đội Mĩ) : xin mời độc giả tìm đọc những chương về “cải tạo công thương nghiệp” do ông Đỗ Mười trực tiếp tiến hành với sự ủy nhiệm của tổng bí thư Lê Duẩn, với những hệ quả như thế nào.
Chiến tranh ủy nhiệm, ý thức hệ ?
Chiến tranh Việt Nam bị lồng vào cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu hai khối tư bản và cộng sản, diễn ra trên bình diện thế giới từ năm 1947 trở đi, là điều hiển nhiên, không cần bàn cãi. Việc tham chiến của Mĩ ở Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1975 không có mục đích thực dân, gắn liền với sự khai thác tài nguyên của Việt Nam, điều đó cũng rõ ràng không kém. Mỹ nhảy vào Việt Nam, kiên quyết biến miền Nam thành “tiền đồn thế giới tự do” đứng trên quan điểm đối đầu quốc tế, ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản Xô-Trung mà họ coi Hồ Chí Minh là “tay sai” (“agent” của cộng sản quốc tế). Khi Robert McNamara phát hiện ra sai lầm của mình thì Hoa Kì đã thất trận. Khi Kissinger (tháng 2 năm 1973) trông thấy bốn câu thơ “Nam quốc sơn hà…” của Lý Thường Kiệt ở Viện bảo tàng lịch sử Hà Nội, thì mấy tuần trước đó, ông ta đã phải ký tắt vào Hiệp định Paris, thừa nhận “độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” (ông ta cũng đủ dí dỏm để, đứng trước câu thơ Lý Thường Kiệt, thốt ra lời bình : “Ô, đây là điều 1 Hiệp định Paris”).
Vậy thì, về phía Mỹ, dùng Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hòa, hay ồ ạt đưa đại quân sang Việt Nam (dù ông Diệm cưỡng lại) là để đánh Liên Xô, đánh Trung Quốc. Trong ý nghĩa này, chiến tranh Việt Nam là “chiến tranh ủy nhiệm”, “chiến tranh ý thức hệ”.
Về phía đối phương, hiển nhiên, lực lượng chống Mĩ không thể đánh Mĩ nếu không có sự viện trợ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc. Và khi Việt Nam thắng Mĩ, người hưởng lợi là cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, nhất là Trung Quốc. Điều đó cũng rõ ràng.
Sai lầm, nếu có, là nghĩ rằng chiến tranh Việt Nam do xung đột quyền lợi giữa các cường quốc, người Việt Nam (cả hai phe) là những con bài được “ủy nhiệm” để phục vụ cho quyền lợi và chịu sự chỉ huy của nước ngoài.
Điều đó đúng cho một bên, thiết tưởng không cần phải chứng minh. Nhưng lầm to, nếu nghĩ nó đúng cho cả bên kia. Các công trình nghiên cứu (ít nhất của các tác giả quốc tế) cho thấy : khi Đảng CSVN quyết định tiến hành chủ trương “bảo vệ và xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, phải trầy trật lắm, họ mới tranh thủ được sự ủng hộ (hay đúng hơn, không phản đối) của Liên Xô, và cũng phải khôn khéo ghê gớm, họ mới làm chủ được nhịp độ, cường độ cuộc đấu tranh võ trang ở miền Nam (hơn một lần, nó không “ăn giơ” với tính toán của Mao Trạch Đông mà mục tiêu là hạ bệ Moskva và móc ngoặc với Mĩ). Ít người biết hơn, là : sau Hiệp định Paris, toàn bộ vũ khí sử dụng để đánh bại quân lực VNCH đều đã được tích lũy từ trước, Liên Xô không hề giúp thêm vũ khí thiết bị nào, còn tìm cách ngăn cản. Câu nói của Mao với Phạm Văn Đồng năm 1974 “chổi ngắn không thể quét xa” không chỉ là một lời nói suông).
Yếu tố quyết định
Giải phóng dân tộc, đương nhiên. Nội chiến, không thể chối cãi. Chiến tranh ủy nhiệm, hiển nhiên. Nhưng ba yếu tố ấy, cái nào là quyết định ? Cuộc chiến tranh 1945-75, tính chất cơ bản của nó là gì ?
Thật ra, nếu đồng ý với nhau về cả ba yếu tố, với nội dung của từng yếu tố như kể trên, thì cuộc tranh luận xem yếu tố nào quyết định, mỗi yếu tố đã tác động lên hai yếu tố kia như thế nào, cũng rất quan trọng, nhưng không ngăn cản sự thông hiểu nhau (trong sự bất đồng).
Thành thực mà nói, người viết bài muốn đưa ra một tiêu chí để xem xét sự tương tác giữa ba yếu tố. Đó là : nhìn lại lịch sử cuộc chiến tranh, từ mùa thu 1945 đến mùa xuân 1975, đâu là nơi quyết định các lựa chọn chiến lược, các biện phát tác chiến, các cuộc tổng tiến công ?
Xét từ góc độ ấy, cuộc chiến tranh đã mở đầu từ những quyết định ở Paris và Hà Nội. Khi cuộc chiến tranh lần thứ nhất kết thúc, quyết định đã được lấy từ Moskva, Bắc Kinh, Việt Bắc một bên, và từ Washington DC, London, Paris, thể hiện ở Genève ngày 21.7.1954. Còn toàn bộ cuộc chiến tranh lần thứ nhì, từ năm 1955 đến đêm 29.4.1975, hai trung tâm quyết định, và chỉ có hai trung tâm đó thôi, là Hà Nội và Washington DC.
Hiệp định Paris được ký kết tại đại sảnh đường Khách sạn Majestic sáng ngày 27 tháng giêng 1973 sau gần năm năm thương lượng, chủ yếu là giữa phái đoàn VNDCCH và phái đoàn Hoa Kỳ. Hơn một tháng sau, ngày 2 tháng 3, cũng tại phòng hội nghị đó, diễn ra Hội nghị quốc tế về Việt Nam, với ông Tổng thư ký LHQ Kurt Walheim, thêm bốn tứ cường (nghiã là đầy đủ ngũ cường đã quyết định ở Geneve năm 1954) và bốn nước thành viên của Ủy ban quốc tế giám sát. Hội nghị long trọng chỉ họp một ngày là xong, mục đích duy nhất là để tổng thư ký LHQ và 12 ngoại trưởng ký vào bản “Định ước quốc tế”, tức là đơn thuần “chứng giám” sự thỏa thuận Viêt-Mĩ. Thời Geneve, cái “thế chiến quốc” ở Genève năm 1954 đã qua rồi.
Từ Hiệp định Paris đến kết cuộc
Cần nói gì thêm sau ngày 27.1.1973 ? Trong khuôn khổ bài viết này, có lẽ chỉ cần nêu hai điểm :
Hiệp định không thể có số phận nào khác hơn là số phận hai năm sau của nó, nghĩa là mục tiêu của nó chỉ có thể thực hiện thông qua một phương thức không do nó quy định. Thật vậy, Mĩ kí kết Hiệp định chỉ cốt để có thể rút hết quân và đón hết tù binh Mĩ một cách an toàn. Một giải pháp chính trị (hai bên miền Nam thương lượng, thành lập chính phủ ba thành phần) không thể đạt được khi mà đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đó là bản án tử hình chính trị. Không những thế, trong việc này, Mĩ và Thiệu thống nhất quyền lợi với nhau : một chính phủ liên hiệp, một cuộc bầu cử tự do, sự tham gia của cộng sản trong một chính quyền dân cử là một điều tối kị, ô nhục hơn cả một chiến thắng quân sự của cộng sản. Không đời nào nước Mĩ của Nixon-Kissinger chấp nhận một chính quyền “cộng sản” thành lập qua bầu cử. Không đời nào có thể để cho một Salvador Allende xuất hiện ở Dinh Độc Lập. Không phải ngẫu nhiên mà chưa đầy 8 tháng sau, Mỹ đã lật đổ tổng thống Chile và đẩy đất nước này vào một thảm họa kéo dài hơn hai thập niên. Cùng lắm, Mỹ có thể ngậm quả bồ hòn là sự sụp đổ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thông qua thất bại quân sự, sau một “khoảng thời gian vừa phải” (a decent interval). Hai năm, trong ngôn ngữ cynic của Kissinger, là một thời gian “decent”.
Người ta có thể phản biện : nếu chính quyền ông Thiệu chịu thi hành Hiệp định chăng nữa, nếu một chính quyền ba thành phần được thành lập đi nữa, thì chẳng chóng thì chầy, cộng sản cũng làm một cú đảo chính như ở Tiệp Khắc năm 1947 chứ sao ? Bằng chứng là, sau ngày 30.4, cứ xem cộng sản đối xử ra sao với thành phần ba, cứ xem chính sách “cải tạo” thế nào ! Lý luận này không phải không có cơ sở (ông Đỗ Mười chắc không phản đối), nhưng hơi bị yếu, ở một điểm : cái có thể sẽ xảy ra không bao giờ biện minh cho một điều đã xảy ra. Vả lại, một quá trình diễn ra trong hòa bình, trong tự do ngôn luận (tương đối) là một trường học cho mọi lực lượng trong một xã hội chưa bao giờ có dân chủ thực sự.
Vả lại, đây là một tranh cãi vô bổ. Có ích hơn, đối với mọi người Việt Nam, bất cứ ở đâu, đang gần trời hay gần đất, là : cùng nhau tìm hiểu sự thật lịch sử, nhận thức những yếu tố khách quan đã chi phối lịch sử dân tộc, ghi nhận khác biệt trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau, để tìm ra mẫu số chung. Cho một nước Việt Nam độc lập, chủ quyền, dân chủ và tự do.
Trong cuộc tìm hiểu ấy, Bên Thắng Cuộc là một đóng góp quan trọng và dũng cảm của nhà báo Huy Đức.
Berlin, 8.2.20
…………………………………….
Ghi chú: GS Nguyễn Ngọc Giao, từng là Phó Tổng thư ký Hội người Việt Nam tại Pháp, tham gia phiên dịch cho Phái đoàn VNDCCH tại Hội nghị Paris về Việt Nam.