Tôi xin mạn phép giới thiệu một số tác phẩm của Nguyễn Thành Nhân , nguyên là cựu chiến binh
của D 3 - E 4 - F 5 - MT 479 .
Chia
Chia nhau từng giọt nhớ mong
Giọt nào đục… giọt nào trong… ơi tình
Chia từng mộng đẹp đêm đêm
Nửa khuya chợt thức lệ mềm gối chăn
Chia từng hơi nhớ hương quen
Lẫn trong tiếng nấc còn xen tiếng cười
Chia nhau cho hết người ơi
Mùa xa nhà - Chương I
Kính tặng những đồng đội Trung đoàn 4,
Sư đoàn 5, MT 479 và những người
dân Khmer yêu dấu của tôi
PHẦN MỘT
__________________
CHƯƠNG 1
Những ngày cận Tết ở
rừng trôi qua chậm chạp. Buổi sáng kéo dài. Buổi trưa lê thê. Buổi chiều đến uể
oải, đi dùng dằng. Và đêm như không bao giờ hết.
Rừng thật vắng và yên
tĩnh, ra khỏi khu vực đơn vị dừng chân tập kết vài trăm mét, chỉ còn tiếng gió
âm u. Ngự trị toàn bộ không gian là lặng im tuyệt đối. Chỉ đôi khi, tiếng AK
điểm xạ hai vọng về từ đâu đó rất xa. Mùa xuân, nhưng cánh rừng quá lặng lẽ
buồn rầu. Dường như những
chồi non vẫn còn thiếp ngủ đâu đó trong những nách lá già nua. Dường như chim
chóc đã rủ nhau đi chơi xa đâu đó chưa về kịp. Những thân cổ thụ nâu sẫm, xanh
mốc rêu, xam xám… kiên nhẫn khoác lớp áo lá úa vàng không sinh khí. Chúng đứng
kề bên nhau trong lặng lẽ. Thỉnh thoảng, ở cây này, cây khác, một cành khô chết
từ lâu chợt răng rắc vặn người rồi tức tưởi lìa thân trong cơn gió xoáy. Những
cành lá trên tầng cao của rừng chợt lao xao một lúc, như thể cất tiếng thở than tiễn biệt một
người bạn mới qua đời.
Đôi khi, trong đêm
khuya, chợt một hồi sấm rền rền vọng lại, mưa đã rơi ở đâu đó xa xôi, một cơn
mưa giông trái mùa thỉnh thoảng xuất hiện trong những khu rừng nhiệt đới. Ban
ngày, không khí oi nồng và khô hạn, cả những cơn gió cũng nóng rãy như hơi nước
tỏa ra từ một nồi nước sôi khổng lồ. Chập tối trở đi, nhiệt độ giảm dần. Rồi từ
khoảng chín giờ đêm cho tới sáng, cái lạnh đột ngột ùa đến – một cái lạnh tê
buốt đến xương. Thời tiết ở đây thay đổi bất thường, nghiệt ngã. Xuân ấm áp, khoan hòa và dịu dàng chưa
đến. Nhưng dường như vẫn có một cái gì không rõ đang âm thầm cựa quậy, đang rạo
rực chuyển mình trong từng tảng đá, thân cây, hay bên dưới lòng đất ấm. Dường
như mọi sự vật đang chuẩn bị để
chờ ngày ùa ra, nở rộ, khoe bày sức sống, cất lên tiếng hát không lời bất
khuất, ngợi ca cuộc sống tươi đẹp vĩnh hằng.
Đại đội dựng lều dã chiến rải rác ở một góc
khu rừng. Những chiếc lều làm cho bức
tranh phong cảnh buồn thiu tẻ nhạt nơi đây chợt có một chút gì ngộ nghĩnh, vui
vui. Chúng như những nét cọ
ngẫu hứng, phá tung bố cục đơn điệu của những cụm cây xanh lướt buồn rầu và bãi
cỏ vàng khô cháy. Lều, hay nói đúng hơn chỉ là những cái chòi nhỏ, được dựng
rất giản dị xuề xòa. Cột lều là bốn thân cây rừng cỡ bắp tay, hai dài hai ngắn,
tạo thành một mái xuôi. Bốn phía lều trống trơn. Mái lều là mấy tấm tăng ghép
nối nằm bên dưới, bên trên phủ những cành lá, những túm cỏ tranh. Nhìn xa,
trông chúng như những chiếc
nhà chòi của trẻ con làng quê dựng lên để chơi trò bán mua, cưới hỏi... Đôi
khi, vài con sẻ rừng lông xám hiếm hoi rong ruổi lang thang qua góc rừng, chợt
sững lại ngạc nhiên, tròn xoe đôi mắt. Chúng đậu trên một cành cây rậm rạp, nép
thân người sau đám lá um tùm và kêu lên chí chóe. Như thể chúng hỏi han nhau:
“Dưới kia, ở giữa đám cỏ tranh vừa xuất hiện cái gì lạ thế?" Chúng xôn xao
bàn tán, âu lo không biết giống chim khổng lồ quái dị nào đã tới đây xây những
cái tổ kỳ khôi và xấu xí thế kia. Rồi cuối cùng, sau một tràng tiếng kêu rít
cao hốt hoảng, chúng bay vù mất, bỏ lại những chiếc lá đung đưa rất khẽ
vì giận dỗi và luyến tiếc những người bạn sao quá đỗi vội vàng.
Những túp lều của Trung
đội hai nằm dưới một khóm ba gốc dầu già cỗi mọc gần nhau. Khi gió nổi lên, hoa
dầu lại từ trên cao xoay xoay bay xuống, rắc đầy trên lớp cỏ úa vàng những đôi
cánh chuồn nâu. Huy ngồi phía ngoài lều, hý hoáy ghi chép. Lâu lâu, một cánh
hoa dầu lại tình cờ đáp xuống vai anh.
Chí phèo, trung đội phó,
ngồi cách đấy không xa, đang mài dao trên một phiến đá hình bán nguyệt. Chí
liếc nhát cuối cùng qua
phiến đá, đưa ngón tay trỏ gạy khẽ lưỡi dao, gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Anh cất
tiếng bâng quơ:
- Vậy là sắp tới cái tết
xa nhà lần thứ bốn... Mẹ kiếp! Tết với nhất gì ở cái rừng khô này!
Huy ngẩng đầu nhìn Chí
phèo. Câu nói của Chí làm anh chợt nao nao. Ngày mai đã là Tết rồi. Huy đưa mắt
lướt qua những khóm cây mọc lưa thưa, qua trảng cỏ trống, hướng tới cụm rừng
dày âm u xanh thẫm phía xa. Chẳng có gì báo hiệu cho mùa xuân cả! Mùa xuân ắt là đã lạc đường không tới
được nơi đây.
Dạo mới sang, Huy đã từ
trạm chỉ huy tiền phương của mặt trận đi thẳng lên tuyến trước theo ngõ
Sàm-rông, băng qua một cánh rừng nằm chếch hướng Tây, cách Sàm-rông chừng một
buổi hành quân. Quanh bìa rừng mọc đầy những cội mai núi già cỗi, bấy giờ trời
lại đang vào tiết lập xuân, hoa mai bừng nở chi chít trên cành, vàng rực lên
trong nắng. Màu vàng hoa mai lúc nào cũng nhắc những người con đi xa nhớ những
ngày cận tết ở quê hương.
Huy nhét cây viết vào
túi áo, ngồi ngẩn người, trong đầu anh một chuỗi ý nghĩ, hình ảnh lướt nhanh
qua.
Mùa này, trong những khu
vườn ngoại ô, mai đã được bứng lên cho vào chậu, được tỉa tót, uốn sửa lại và
chở vào bày bán trên những vỉa hè hay khu chợ trung tâm thành phố. Chợ tết chắc
cũng đang vào lúc tưng bừng, nhộn nhịp, với đủ hoa trái, sắc màu.
Nào những bông cúc đại
đóa trắng, vàng, tim tím, xanh lơ nằm
chen vai bên thược dược đỏ, hồng. Nào những đoá hồng kiêu sa rung rinh trong
nắng sớm kề bên những cụm vạn thọ bình dị, thân quen; và hoa đào đỏ thắm; và
mẫu đơn, lay-ơn muôn sắc muôn màu; và huệ trắng, huệ lam... Có đến trăm loài
hoa đua nhau khoe sắc khoe hương. Rồi còn bao nhiêu là bánh mứt, bao nhiêu là
thứ trái cây đua nhau phô vẻ hấp dẫn, ngon lành...
Ôi, quê nhà! Nhớ làm sao
những con đường, những khu chợ hoa chợ tết tràn ngập người qua kẻ lại, hội tụ
biết bao nhiêu nàng thiếu nữ mắt
sáng môi hồng, đẹp như tranh vẽ; những ngọn gió đầu xuân nhẹ vờn trên tà áo
mỏng, trên những lá non, lộc biếc lao xao; hương thơm của muôn hoa, hương vị
ngọt ngào của trái cây, bánh mứt, hương tóc của một ai đó vừa đi qua thoảng
lại.
Nhớ làm sao Sài Gòn
những ngày cuối năm náo nức rộn ràng; những con người quen lạ với mắt sáng
môi cười ánh lên niềm vui, hy vọng vào một năm mới nhiều may mắn, phúc lành
hơn...
Hôm qua, Huy đã đi ngược
xuống hướng đông mấy cây số, mong tìm được một cành mai mang về mừng đón giao
thừa. Anh đi mãi, lùng đỏ mắt, nhưng chỉ thấy có mỗi màu vàng héo úa của lá
khô. Rừng phía trên này không có mai, thật lạ, rừng mai mà anh đã đi qua chỉ cách
đây khoảng ba mươi cây số. Huy tự nhủ: Chả lẽ bây giờ cuốc bộ sáu mươi cây cả
đi lẫn về chỉ để kiếm một cành hoa? Vả lại, đại đội trưởng Thái đã có lệnh
không được đi xa nơi tập kết quá năm cây. Cuối cùng, Huy đành phải quay về,
thất vọng. Anh nghĩ, không có hoa, không có làn khói mỏng manh, thoang thoảng
mùi thơm của những nén nhang thắp lên, không khí của giây phút chuyển tiếp từ năm
cũ sang năm mới sẽ kém phần ấm áp, thiêng liêng. Nhưng biết làm sao, lính mà,
lại ở tận trong rừng, đang trong thời điểm chuẩn bị cho đợt hành quân cơ động
mới, đành phải chấp nhận những cái đang có mà thôi.
Tuy nhiên, đêm giao thừa
này, đêm giao thừa đầu tiên xa nhà của Huy, cũng hứa hẹn những điều cực kỳ hấp
dẫn. Toàn trung đoàn đều có
rượu, không biết mấy tay lính cũ đã xoay xở cách nào hay vậy! Tiểu đội nào cũng
có ít nhất là một can vàng bốn lít. Đêm nay, Huy sẽ được thưởng thức cái thú
vui đầy nam tính, hào sảng như những vị anh hùng hảo hán trong truyện Tàu xưa,
sẽ được hai tay bưng cái bát B52[1] đưa lên miệng, ngửa cổ uống một hơi
dài, để rồi nghe người mình lâng lâng, ngây ngất.
Huy chưa từng uống rượu.
Anh chỉ nghe nói về cái cảm giác kỳ lạ do nó gây ra, và thấy cũng hay hay. Đêm
nay, đêm nay mình sẽ như người xưa, vừa bưng bát rượu, vừa đọc bài thơ bi
tráng, hào hùng của Vương Hàn:
Bồ đào mỹ
tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân
hồi
(Tạm dịch:
Rượu đào chung ngọc dạ
quang
Chưa vơi đã rộn tiếng
đàn xuất quân
Say lăn lóc giữa sa
trường
Bạn đừng cất tiếng cười
khan lắc đầu
Xưa nay ra chốn binh đao
Mấy ai biết được ngày
sau có về)
Lại còn có một cái khác,
vô cùng thú vị, mà toàn bộ các tay súng của ba tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị
trực thuộc trung đoàn đã bí mật giao kết với nhau: đốt pháo hoa đón giao thừa.
Pháo hoa ở đây, nơi trận địa này, sẽ được tạo ra bởi các loại đạn lửa khác
nhau. Đạn lửa sẽ đan kết thành những bông hoa trên bầu trời chiến địa. Và những
người lính sẽ không còn cảm giác xa cách quê hương. Đạn tiểu liên, đạn đại liên
K.57, 12.7 là những tràng
pháo chuột, pháo trung, và đạn cối 60, cối 82... sẽ là những tiếng pháo đại
điểm nhịp cực kỳ ấn tượng! Đây là một sự vụ khá là nghiêm trọng, vì quân lệnh
nghiêm cấm bắn súng bừa bãi. Nhưng vừa rồi đánh chiếm Ampil, quân ta thu được
rất nhiều đạn dược các thứ. Lính chiến mà, đôi khi cũng phải chơi cho ra trò
như vậy chứ.
Đại đội tải của trung
đoàn có quân số tổng cộng lên đến xấp xỉ sáu mươi người. Con số này lớn hơn
nhiều so với thực lực của các đại đội chiến đấu, nhất là đang trong mùa chiến dịch.
Một phần vì quân số của nó ít biến động. Thêm nữa, đại đội đã được bổ sung quân
số hồi cuối năm để đảm bảo thực hiện thật tốt công tác tải đạn cáng thương phục
vụ cho các đơn vị trực tiếp tác chiến.
Hôm mới về trung đoàn
nhận nhiệm vụ, Huy đã được phân công về đại đội này. Đại đội trưởng Thái vui vẻ
tiếp nhận Huy. Anh tạm thời bổ nhiệm Huy làm tiểu đội phó tiểu đội ba, trung
đội hai. Anh cũng nói sơ qua về nhiệm vụ vai trò của đại đội trước nét mặt ỉu
xìu thất vọng của Huy. Huy chán nản khi biết mình không về một đơn vị trực tiếp
chiến đấu, mà là đơn vị phục vụ, trong một trận đánh lớn lao như vậy. Trên
đường sang đây, lúc nằm ở quân trạm thị xã Batđomboong, Huy gặp một sĩ quan người Thanh Hóa đi phép ngược về.
Khi nghe Huy nói sẽ về Sư đoàn X, anh bảo đây là một sư đoàn đã hai lần được
phong anh hùng, anh cũng nói thêm: “Về đó khá là vất đấy! Tôi từng ở dưới bộ
binh tiểu đoàn của sư đó mấy năm…” Huy đã hình dung ra những trận đánh vô cùng
kịch liệt hào hùng, tương tự như trong những bộ phim lịch sử nổi tiếng anh từng
xem ngày trước. Những trận đánh kinh thiên động địa, đầy máu và hoa, đầy tính
anh hùng ca lãng mạn. Huy tưởng tượng, gần như ao ước, mình sẽ lập được một
chiến công gì đó, nho nhỏ thôi, và cũng sẽ bị thương qua quýt gì đó, bị thương
nhưng vừa phải thôi, đừng mất đứt một chân hay một tay, một mắt… để sau này về
còn có vài cái sẹo làm kỷ niệm! Vậy mà bây giờ… Thái đoán được ngay những ý
nghĩ của Huy, anh động viên:
- Cậu đừng tưởng đây là
công việc nhẹ nhàng đơn giản. Nó cũng khá căng, vất vả và nguy hiểm đấy, và
cũng là một công tác vô cùng quan trọng cần thiết. Nếu không có chúng ta, các
đơn vị lấy đâu ra đạn dược để chiến đấu, ai là người chuyển các thương binh, tử
sĩ về tuyến sau? Thực tình thì nó cũng hơi buồn tẻ hơn là trực tiếp cầm súng,
nhưng là lính, chúng ta phải hiểu dù ở bất cứ cương vị, chỗ đứng nào, thì cái
đánh giá chúng ta là tinh thần công tác, chứ không phải là hình thức. Với lại,
cậu vừa mới sang đây, chưa có kinh nghiệm gì, chưa quen với điều kiện chiến
trường, nên trên mới đưa cậu về đây để thử thách, làm quen. Cậu cứ yên chí, sớm
muộn gì, cậu cũng sẽ về đơn vị chiến đấu. Lúc đó chỉ sợ cậu lại không đủ can
đảm, ý chí mà đứng vững thôi!
Thế là Huy vác ba lô về
trung đội hai. Và đã nếm trải trận đánh đầu tiên của đời lính ở đại đội này.
***
Ở lều bên cạnh, Trường,
trung đội trưởng, vừa lên xong kế hoạch cho ba ngày Tết. Anh đã sắp xếp, phân
bố lại toàn bộ các thức ăn hiện có: vài chục lon cá hộp Thái trung đoàn cấp lại
sau khi thu được ở Ampil, thịt heo đóng hộp của ta, khô cá lóc bông, ruốc cá,
bánh kẹo, thuốc lá hậu phương gửi sang... để mỗi ngày Tết đều vừa đủ thức ăn
thết đãi khách khứa, đồng hương, vừa dành lại một phần nhỏ cho những ngày sau
đó. Anh bước ra khỏi lều, cất tiếng gọi Nhu, anh nuôi trung đội, đang ngồi nhặt
thóc phía bên kia lại, giao cho Nhu tờ giấy anh đã liệt kê chi tiết. Chí phèo
gọi giật Nhu tới, cầm lấy tờ giấy đọc qua, rồi nói như quát với Trường:
- Sao mày lo xa thế.
Lính là phải chơi xả láng, hết mình, chơi cho đã rồi mai có chết cũng không còn
phải tiếc gì! Thằng Nhu đừng có nghe nó, cứ việc đem ra nấu hết trong ba ngày
Tết cho tao!
Nhu nhìn Trường, rồi lại
nhìn Chí phèo, không biết phải nghe ai. Anh nghĩ bụng, có phần thiên về phía
Chí phèo: “Ông nào cũng có lý. Thôi cứ tới ngày nào tính ngày đó, hơi đâu mà
nghĩ ngợi cho lắm.”
Chí phèo càu nhàu thêm
vài câu, rồi gọi to:
- Mấy thằng được phân
công lấy củi hôm qua đâu, theo tao!
Theo hội ý hôm qua, bữa
nay tới phiên Hòa, Huy, Phước, Danh đi lấy củi để đốt lửa trại đón giao thừa.
Mọi người lấy dao rựa rồi tập họp lại trước cửa lều. Chí phèo lại hét:
- Lên đường!
Trường nhìn theo cười
khẽ, không có vẻ gì bực tức. Trường đã quá hiểu Chí phèo, ngay cái biệt danh
cũng đã nói lên tính cách của anh. Chí phèo nói đó rồi quên đó, ruột để ngoài
da, cứ hùng hổ làm như sắp nhảy xổ vào người khác vậy chứ thật ra lại rất đa
sầu đa cảm và tốt bụng.
Dạo mới về Phnom S’rok,
có một lần Trường và Chí phèo đi xắn măng rừng, chợt Trường bị một viên đạn mồ
côi ở đâu rơi xuống xuyên qua bắp chân trái. Vết thương chỉ ở phần mềm, không
nguy hiểm, nhưng máu ra khá nhiều. Chí cuống quýt bứt vội mấy cọng dây rừng
quanh đó, rồi móc cái khăn tay của người yêu tặng ra, đè lên vết đạn băng bó
lại cho anh. Cái khăn này Chí phèo rất quý, chỉ cất trong túi áo chứ không khi
nào đem ra lau mặt. Nhưng cái khăn quá mỏng, máu vẫn ứa ra đẫm ướt ống quần. Lúc đó hai người cách trại
khoảng ba cây số, Chí phèo dìu anh đi một đoạn khoảng hai trăm mét, rồi thấy
máu cứ rỉ ra, Chí nói: “Thôi để tao cõng mày. Mày đi, động vết thương mất máu
nhiều nguy lắm.” Rồi Chí xốc anh lên vai, hì hụi cõng anh từ đó về đơn vị.
Một lần khác, Phước lên
cơn sốt ác tính, người cứ co giật thấy thương quá chừng, Chí vừa nằm ôm lấy nó
đè xuống, vừa nước mắt nước mũi chèm nhèm. Phải nói trong trung đội, Chí phèo
thương nhất là Phước. Cả hai đều mồ côi cha mẹ từ nhỏ, đều chịu nhiều vất vả,
nên dễ đồng cảm với nhau. Có những đêm, hai người nằm rì rầm nói chuyện suốt,
làm Trường phát bực, phải quát lên: “Hai thằng mày còn sống với nhau dài dài,
có phải là một ngày một bữa mà nói cho lắm thế! Ngủ đi, cho người khác ngủ!”
Trường nghĩ tới đó chợt
thấy buồn buồn, nhớ những chuyện xa xôi. Đã hai năm rồi anh không biết chút tin
gì ở quê nhà. Bố mẹ anh đều đã qua đời. Hai ông anh, người thì lên mạn Cao Bắc
Lạng làm rừng, người thì vào tận Tây Nguyên khai khẩn đất hoang, chẳng biết giờ
làm ăn, sinh sống ra sao. Còn An, người con gái vùng Thanh có cặp mắt đen lay
láy, đôi má cứ ửng hồng lên mỗi lúc gặp anh dạo mới quen nhau, từ sau lá thư
cuối cùng, với những câu úp mở, quanh co, ngụ ý khuyên anh hãy quên đi những
chuyện ngày xưa cũng đã im lặng, không hồi đáp những lá thư đầy âu lo, ray rứt
của anh.
Giờ cô ấy ở nơi đâu,
sống ra sao? Có khi nào cô nhìn ra cánh đồng chiêm trổ đòng vàng óng mà nhớ tới
buổi chiều cùng anh thề sẽ sống bên nhau mãi mãi?...
Thật ra, Trường không hề
giận trách gì An. Cô hẳn phải có những lý do để làm như vậy. Vả chăng, chính
Trường cũng có nhiều lúc định nói lời chia tay với cô, ngay trước khi nhận được
lá thư đau xót ấy. Đó là những giây phút bàng hoàng, trống vắng sau một trận
đánh căng, có người đổ máu và có người ra đi mãi mãi. Những lúc ấy Trường chợt
nghĩ biết đâu lần kế đó sẽ
là chính mình. Và anh mường tượng tới sự đau đớn tột cùng của An khi nhận được
một tin dữ từ đồng đội của anh. Thế là anh viết những lá thư ngắn, với những
câu khô khan, phi lý, có khi còn nặng nề xúc phạm cô, để mong cô sẽ giận, và sẽ
quên anh.
Nhưng rồi sau đó bình
tĩnh lại, Trường xé nát những lá thư này. An đã trở thành một phần không thể
tách rời với vui buồn, với thương yêu tràn ngập trong anh. Anh không thể, không
có đủ can đảm để làm cô buồn phiền, đau đớn chỉ vì một điều chưa xảy đến, một
điều biết đâu sẽ không bao giờ xảy đến... Trường chỉ thấy lòng đau nhói, và
buồn vì An không nói rõ nguyên do, để anh khỏi phải thắc mắc suy diễn lung
tung. Anh hiểu cô có những điều khó nói, anh hiểu không nên thắc mắc mà chỉ nên
chấp nhận một sự thật vô cùng đơn giản, là đã mất An, và tốt nhất là hãy quên
đi mọi chuyện. Nhưng sự mâu thuẫn của tim anh, cũng như sự mâu thuẫn đời đời
trong trái tim của loài người, là biết rất rõ cách tốt nhất để chữa trị vết
thương lòng, nhưng vẫn cứ hành xử những điều ngược lại, cứ tự mình khoét sâu,
chọc mãi vết thương.
Trường thở một hơi dài,
lắc mạnh đầu như để xua đi những ý nghĩ nặng nề. Anh vào lều xách con dao bản
to để chặt cây rừng ra, bước tới đống cây khô làm củi. Anh vung dao lia lịa,
phạt đôi những thân cây khô, cho đến lúc đống cây đã vợi hẳn đi, và mồ hôi đã
ròng ròng ướt đẫm chiếc áo xanh bạc phếch.
***
Cả bọn đã chặt được khá
nhiều củi khô, toàn là những cành dầu, sao chắc nịch. Họ bó phần của mỗi người
lại thành hai bó, cột ràng thật chặt, rồi
chọn một cành thẳng làm đòn gánh xỏ qua, gánh về.
Huy đi chân nam đá chân
chiêu như người say rượu. Chí phèo
cứ nhìn dáng bộ của Huy mà cười thầm trong bụng. Anh tự hỏi tại sao người ta
lại tuyển mộ một tên nhỏ con ốm yếu, thư sinh trói gà không chặt như Huy vào
quân đội. Lại còn là khẩu đội trưởng hỏa lực nữa chứ! Bộ thằng này mà xiết
chừng nửa thùng 12 ly bảy chắc mặt không còn chút máu! Anh cất giọng chế nhạo
Huy:
- Tao không hiểu sao họ
lại chọn một thằng thư sinh trói gà không chặt như mày cho học hỏa lực đó Huy.
Chưa hết, tướng mày đâu phải tướng con nhà lính. Tướng mày chỉ có nước ngồi bàn cạo giấy mà thôi!
Huy trả đũa:
- Đừng trông mặt bắt
hình dong anh Chí ơi. Chứ như anh cũng đâu phải là tướng lính. Nom mặt mày của
anh, chỉ có về làng Vũ Đại vạch mặt ăn vạ là hợp thời trang nhất đó!
Hòa chợt cười khe khé
như ngựa hí, quay qua hỏi Chí phèo:
- Ông Chí phèo, ông còn
nhớ vị nước trà thằng Huy pha hôm nó mới về không… hí hí… Cái đó người ta kêu
bằng pha trà kiểu “tướng sĩ một lòng phụ tử ”[2] đó nghe!
Huy bật cười. Cả bọn
cũng cười theo hô hố. Hôm đó, Chí phèo đưa cho Huy một gói trà, bảo đem pha.
Huy ra bếp nấu một nồi nước to, rồi trút hết gói trà vào. Trên kia đã nghe
tiếng Chí la oai oái:
- Huy đâu rồi, có ấm trà
mà mày làm gì lâu thế!
Khi thấy Huy lễ mễ bê
nồi nước lên, Chí phèo giật mình kinh ngạc:
- Mày bưng nồi nước lên làm gì vậy Huy?
- Thì anh kêu em pha trà mà – Huy
thản nhiên đáp.
- Có chút xíu trà mà pha
nguyên nồi nước vậy sao! – Chí phèo trợn mắt – Trời ơi, đúng là ngu không chịu
nổi!
- Vậy chứ làm sao? – Huy
nổi cáu.
- Nè, Hòa, mày về huấn
luyện lại lính mày cách pha trà nghe. Lần sau mà còn thế này là tao không tha
mày đâu. Hừ! Toi mất gói trà rồi – Chí nhăn mặt – Đâu đem cái nồi lại tao xem!
Thì ra, pha trà ở đây
khác với ở nhà! Ở đây, lính tráng quen uống thứ "trà quạu" pha thật
đặc. Như gói trà của Chí, chỉ pha độ một phần ba bi đông nước. Thế mà Huy tống
vào cái nồi cả hai lít nước sôi.
Rõ ràng, trong cuộc sống
lính chiến ở đây có biết bao điều mới lạ Huy chưa từng biết đến. Anh ngơ ngác
với mấy từ lạ tai cánh lính cũ dùng. Trong đó, có những từ nghiêm chỉnh, cũng
có từ lóng mà mấy tay ma cũ hay lấy nó để trêu mấy con ma mới tò te. Khi
Huy mới vừa chân ướt chân ráo về tới nhà trung đội, chưa kịp khô mồ hôi, cả đám
lính cũ đã nhao nhao bu lại. Người này nhìn anh như người ta nhìn một con gà
giò trong lồng tre ngoài chợ, đánh giá xem nó có dễ bị toi không, có thể thành một
con gà trống hiên ngang, đủ tài chăn dắt lãnh đạo cả bầy gà mái hay không.
Người khác đưa tay nắn nắn bắp tay, bắp chân Huy rồi bĩu môi lắc đầu khi dễ. Tự
ái Huy nổi lên đùng đùng. Dù gì, người ta cũng qua hết chín tháng quân trường,
rèn ngày rèn đêm đến da đen cháy như than, thịt săn cứng như củi, chứ đâu là
loại bở. Chỉ có cái Huy nhỏ con và hơi ốm thôi mà! Rồi một tay mặt mày bậm
trợn, râu tóc bờm xờm, sau này mới biết là anh Chí nhà ta, vừa cười nhe trọn
hai hàm răng ám đen khói thuốc lào, vừa ranh mảnh nháy mắt với Huy:
- Trung đoàn có cấp tiền
“ xốc lọ” cho mày chưa vậy?
- Tiền xốc lọ là tiền
gì? - Huy thực sự ngơ ngác.
Tay bậm
trợn giải thích một cách đáng ngờ:
- Đó là một loại trợ cấp
cho lính mới sang. Mai mày lên tài vụ trung đoàn hỏi đi nghe – Anh ta vờ vịt –
Sao kỳ vậy cà! Lẽ ra họ phải cấp cho mày rồi mới đúng chứ!
Cả bọn cười ầm lên. Huy
nhìn họ, hai mắt tròn xoe như một
con nai vàng chính hiệu. Huy hỏi mãi nhưng chẳng ai chịu nói rõ ràng, chỉ hàm
hồ ú ớ đó là một món tiền rất ư hấp dẫn, không lấy là uổng cả nửa cuộc đời! Mấy
bữa sau, Danh mới chịu cười nắc nẻ giải thích cho Huy. (Xin độc giả thứ lỗi vì lời giải thích đưa ra đây có phần hơi
bất tiện!) Chiều hôm đó hội
ý, Huy lại thêm một phen ngạc nhiên khi Trường nhắc nhở:
- Các đồng chí nhớ giao
ca cho đúng giờ giấc. Đừng có ăn gian nhau dăm mười phút mà anh em xích mích…
Huy nhìn quanh một lượt,
chẳng thấy ai có đồng hồ cả. Anh hỏi:
- Ở đây không có đồng
hồ, làm sao biết giờ cho đúng?
Trường giải thích:
- Chúng ta sẽ nhìn sao
để đoán giờ. Từ từ rồi Huy sẽ quen thôi. Ví dụ như chập tối là sáu giờ rưỡi,
thì sao Hôm mọc. Rồi ta sẽ xác định một điểm mốc so với ngôi sao, một ngọn cây
chẳng hạn. Một tiếng đồng hồ, thì ngôi sao sẽ di chuyển so với vị trí lúc đầu
khoảng một gang tay…
- Một gang tay?
- Tức là em sẽ duỗi
thẳng tay ra, rồi xòe tay trước mắt để ướm khoảng cách đó.
- Ạ , ạ …. – Huy gật gù
thú vị.
Lần khác, vài hôm sau
đó, Huy cảm thấy trong người tự dưng lừ đừ khó chịu, buồn ngủ lạ lùng. Khi đó,
đang ém quân chờ đến ngày tấn công, nên cũng không có công tác gì, Huy nằm ngủ
li bì. Chí phèo vội đánh thức Huy, anh bảo:
- Mày không nên ngủ
nhiều lúc ban ngày. Nếu thấy khó chịu thì kiếm chuyện làm cho đổ mồ hôi. Ngủ
ngày nhiều trong rừng dễ bị sốt lắm đó…
Đại loại những tri thức
nhỏ nhoi, đơn giản như vậy làm Huy luôn cảm thấy bất ngờ và thích thú. Mỗi ngày
Huy lại học được thêm vài điều mới lạ.
Vừa đi, vừa chuyện trò
đùa cợt, chẳng mấy chốc họ đã về tới nơi đóng quân. Mọi người xách mấy cái bi
đông ra tắm, chuẩn bị thân người sạch sẽ thoải mái để chào đón giao thừa. Nước
này phải tải về từ một nơi khá xa. Do đó, họ tiết kiệm bằng cách tắm “một bi
đông”. Nghĩa là chỉ tắm trong phạm vi giới
hạn bao nhiêu đó nước. Trước tiên, họ đặt sát cái bi đông lên đầu, dốc ngược,
để cho nước chảy rỉ rả vừa đủ ướt toàn thân. Rồi kỳ cọ. Rồi lấy khăn lau. Rồi
lại cho nước rỉ rả qua thêm lần cuối, trở mặt còn sạch của khăn lau lại. Nói
cho đúng thì cũng chả khác gì nhúng nước chiếc khăn rồi lau người. Nhưng làm
kiểu này khoái hơn và dễ chịu hơn. Sau đó, mọi người trở về tiểu đội ăn cơm
tối. Đêm đã bắt đầu buông xuống.
***
Huy bàn giao ca gác cho
Vũ rồi quay trở về lều. Sao Cày đã ló ra sau ngọn cây dầu độc mộc, tức là
khoảng chín giờ đêm. Trời lành lạnh, một thứ lạnh nao nao khó tả. Bầu trời đêm xanh
đen thăm thẳm trên đầu chi chít những sao. Đêm giao thừa xa nhà xa quê đầu tiên
của Huy đang chầm chậm trôi qua, vô tình không biết nó đã mang về cho Huy biết
bao suy nghĩ, biết bao cảm xúc vui buồn, nhớ thương lẫn lộn.
Lúc nãy ngồi một mình
trong ụ gác, anh đã điểm lại trong đầu bao nhiêu hình ảnh.
Buổi chiều cuối cùng
trước lúc đi xa, má Huy đã đứng lặng bên đường khi anh nhảy vội lên chiếc xe đò
để quay về đơn vị. Khi xe lăn bánh, anh chồm người ngó ra, vừa kịp thấy người
đang giơ tay lên quẹt vội dòng nước mắt. Má đã cố kềm nén tiếng nấc, kềm nén
dòng lệ để anh khỏi phải nao lòng, nhưng rồi lúc ấy anh cũng đã nhận ra người
buồn đau đến mức nào khi phải xa anh, không biết đến bao giờ...
Huy nhớ bé út với đôi
mắt tròn xoe. Ngày anh đi nó vừa tròn bốn tuổi. Có một lần Tường Vân, cô lớp
trưởng, tới nhà anh chơi, bắt gặp anh đang bế bé út đùa giỡn đã khen nức
nở: “Trời, con bé có đôi
mắt ngộ ghê! Sau này chắc
làm khối anh chết mệt!”…
Huy nhớ con đường đến
trường có mấy cây phượng đỏ nở hoa rất sớm. Những buổi chiều đi học về anh đã
thả bước thật chậm để ngắm nhìn những cánh phượng đỏ liêu xiêu rơi xuống... Rồi
những lần anh và bọn bạn trốn học sang La-san Mai thôn, Thanh Đa để tắm sông.
Tụi anh lội qua phía bờ bên kia, nơi có một cái cù lao nhỏ giữa dòng mọc toàn những
cây dừa nước để bắt còng. Hồi đó, tụi anh hay uống cà phê buổi tối. Thằng Hà
xách túi còng bắt được về nhà nó rang, rồi mang ra quán, tụi anh vừa tán dóc,
vừa nhâm nhi còng rang với nước trà...
Huy nhớ những đêm giao
thừa, khi bầu trời khuya trở nên xanh nhạt, và những vì sao xa tít tắp hẳn đi,
lư hương trên bàn thờ tổ tiên được đốt lên, mùi trầm hương ngan ngát. Má anh sẽ
bày thêm một mâm trái cây để mang ra cúng trời đất trước hiên nhà. Nồi bánh tét
kê ở góc sân cũng bắt đầu reo lên vui vẻ, báo tin bánh đã sắp chín mềm. Ánh lửa
bếp sáng bập bùng, soi lên mặt đất những bóng người to đen sẫm đang cử động lao
xao. Bọn trẻ con tụ tập ngồi quanh dây pháo đỏ, khe khẽ tán chuyện, hồi hộp chờ
tới lúc những chùm pháo nổ tạch đùng, văng tung toé. Trong đêm mênh mang, một
cái gì ấm áp, linh thiêng đang lan tỏa. Nó bay đến, ghé qua khắp mọi ngôi nhà,
nối một sợi chỉ mong manh vô hình nhưng bền chặt giữa mọi tâm hồn lại với nhau.
Có phải người ta gọi đó là hồn thiêng đất nước?...
Những hình ảnh cứ lần
lượt theo dòng liên tưởng ập về, xâm chiếm toàn bộ trí não của Huy, dẫn anh về
với những ngày qua, dù Huy vẫn mở mắt trừng trừng nhìn ra cánh trảng trước mặt.
Huy chui vào lều, mở ba
lô lấy cuốn sổ nhật ký, định ghi vội vài dòng ý tưởng còn đọng lại sau ca gác.
Nhưng rồi không biết nghĩ sao, anh lại cất nó vào. Anh bước ra, đi về phía nhà
trung đội.
Khắp các đơn vị, lửa đã
đốt lên từ khi chập tối. Những đốm lửa trại cháy chập chờn hắt sáng cả một góc
rừng. Tiếng ca hát, la lối, reo hò, tiếng gõ đập vào can nước, vào xoong nồi
đánh nhịp theo lời hát văng vẳng khi xa khi gần theo hướng gió. Cả trung đội
đang ngồi vây quanh đống lửa, trừ những người trực gác. Trường đang cầm cái can
rượu đã vơi phân nửa rót vào bát, chợt ngước lên trông thấy Huy. Anh kêu lên:
- A, vào ngồi đi đồng
chí tân A phó A3. Mày đến sau, phải làm luôn ba bát đấy.
Huy len vào ngồi xuống
giữa Phước và Chí phèo. Anh đưa tay đỡ lấy bát rượu, mỉm cười nhìn quanh khắp
mọi người, nói to:
- Xin mấy anh thông cảm,
tôi chưa từng uống rượu bao giờ. Nhưng cũng xin uống cạn một chén này chung vui
với các anh.
Nói đoạn, Huy ngửa cổ từ
từ trút bát rượu vào miệng. Hơi rượu cay nồng bốc lên mũi làm anh muốn sặc. Hôm
qua, anh đã nghe mấy tay bợm nói, khi uống phải nín thở làm một hơi mới không
bị sặc, nên đã chuẩn bị tinh thần làm theo thật đúng. Vậy mà suýt chút nữa cũng
không tránh khỏi. Tuy nhiên, Huy cũng đã uống hết bát rượu thật ngọt. Xong, anh
giao trả cái bát lại cho Trường, chủ xị. Anh nhăn mặt, cảm nhận một luồng hơi
nóng đang lan tỏa rừng rực từ bụng ngược trở lên cổ, da thịt chợt nóng ran lên
đến muốn toát mồ hôi, dù khí trời khá lạnh. Hòa, A trưởng A3, đang ôm đàn hát
những câu do một người lính nào đó của trung đoàn cải biên từ bài Mùa xuân lá
khô:
“Tôi trở lại vùng Sầm
Bua, vùng xa xôi đóng gần núi Cườm. Sau những ngày lo xây dựng, có những đêm đi
phục chốt, tôi lại đi chiến dịch K.5. Ngồi xe ra đến Xi-xô-phôn, an dưỡng ba
ngày ăn nhậu thật là vui. Trong lúc say, ai có đâu ngờ, quê hương từng giờ mẹ
mong chờ tin con...”
Huy đưa mắt nhìn quanh.
Dưới ánh lửa chập chờn khi mờ khi tỏ, gương mặt ai cũng có một vẻ buồn buồn sâu
kín, dù là đang cười nói xôn xao hay ngồi im lặng lẽ. Hòa đã hát xong bài hát.
Toàn bộ im lắng trong giây lát. Chỉ còn nghe tiếng lửa reo, tiếng nổ tí tách
của những chỗ thân gỗ bị ẩm mục. Những lời hát này thật đơn sơ mộc mạc, nhưng
nó như thuật lại cho bọn anh nghe về thời gian vừa mới trôi qua, về cuộc sống,
tình cảm, nghĩ suy chân
thật của những tháng ngày này.
Những người lính Việt
Nam đang ngồi đây, hay đang ngồi trong một khu trại nằm bên một cánh rừng, bên
một bờ sông, con suối, trên một sườn núi, đỉnh đồi chon von heo hút nào đó,
trên khắp đất nước Campuchia này, hầu hết đều còn rất trẻ. Những gương mặt xạm
đen nắng gió vẫn còn lưu lại chút nét gì đó trẻ con thơ dại trên nét cong vành
môi tinh nghịch, lại cũng vừa già giặn ưu tư trong những cặp mắt long lanh. Có
người tuổi quân chưa tròn một năm, ngay trước lúc khoác chiếc áo xanh vẫn còn
nghịch ngợm giành quà bánh với em mình, vẫn còn vô tư hò reo trong một cuộc đá
dế, đá cá lia thia. Vậy mà, trong trận chiến vừa qua, đã có một số người nằm
xuống, mãi mãi ra đi; đã có những người khi ngã xuống vẫn còn mở mắt trừng
trừng kinh ngạc, như không tin mình lại có thể chết vào lúc tuổi còn xanh, mộng
còn đầy, còn chưa biết thế nào là nụ
hôn lên má một người con gái.
Hòa quay qua Huy:
- Huy này, mày hát một
bài đi. Ở đây ai cũng đã hát rồi.
- Anh đưa cây đàn cho em
– Huy đáp.
Huy ôm cây đàn ghi ta cũ, lớp ván phần lưng
thùng đàn đã bị bong ra, còn phía trước thì nứt nẻ loang lổ, anh gảy khẽ vài
nốt rồi ngước lên:
- Tôi xin hát một bài
hát của Trần Tiến để tưởng niệm tới những đồng đội đã hy sinh của chúng ta.
Trường chuyền bát rượu
sang bảo Huy:
- Làm thêm một chén cho
có hứng.
Huy uống cạn bát rượu
rồi cất tiếng hát. Men rượu ngây ngất, không khí nồng ấm gắn bó thương yêu và những
niềm riêng canh cánh, thoáng chốc cùng trộn lẫn vào nhau bay lên thành tiếng
hát. Huy thấy lòng mình cũng tan loãng ra trong những ý tình câu nhạc gần gũi
và chân thật.
Bài hát kể về tâm tình
của một người lính nào đó; mà cũng là của thật nhiều người lính; trước cái chết
của đồng đội thân thương.
Bài hát kể về nụ hôn đầu đời của một chàng lính trẻ. Nụ hôn đó không dành cho
một cô gái dịu dàng xinh đẹp. Nó không đặt lên bờ môi trinh nữ ngọt thơm như cỏ
non, như hoa sứ hoa quỳnh. Nó đặt lên trên đôi mắt khép hờ còn đầy tiếc nuối
ngỡ ngàng của một người bạn vừa ngã xuống. Nụ hôn đầu của người lính không dành
cho tình yêu đôi lứa; Nụ hôn đầu của người lính dành cho tình đồng đội. Và
người lính hát khúc tình ca bằng những "lời lửa cháy". Đây
không là lời tình hát tặng em đâu, người yêu nhỏ. Đây là khúc hành ca tôi dành
tặng bạn tôi. Dành ru bạn tôi giấc ngủ cuối cùng... và mãi mãi...
Trong khoảnh khắc này
của đêm giao thừa, bài hát nghe ra có một cái gì thật là kỳ dị. Nó không thích
hợp chút nào với những giây phút cuối cùng của năm – lúc mà theo lẽ thường mọi
người đang náo nức xôn xao, với những hy vọng, niềm tin vào một năm mới nhiều
may mắn, với những dự tính ước mơ, những kế hoạch đầy triển vọng. Nhưng nó thật
sự gây xúc động. Những người lính của đại đội tải này khi nghe bài hát, thấy nó
như nói về chính bản thân mình. Và đôi mắt họ long lanh trong ánh lửa. Có phải
là nước mắt? Hay chỉ là do một hạt bụi vô tình theo gió bay vào làm khóe mắt
xốn xang?...
Huy đã hát tới khúc cuối
của bài hát. “…Hãy hát
lời lửa cháy bằng trái tim tình yêu. Hãy hát lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy. Hãy hát lời lửa cháy bằng
trái tim yêu thương. Hãy hát lời yêu thương bằng lửa cháy trong ta.” Lòng Huy cũng đang bừng bừng bốc cháy.
Ngọn lửa thương yêu, tiếc nuối và đau đớn sôi lên thiêu đốt trái tim anh.
Sau đó, tới lượt Minh,
lính cuối 84, người Thành phố. Anh ôm đàn la lên:
- Thôi, không hát mấy
bài buồn nữa nghe, muốn đứt gan đứt ruột rồi. Nhảy đi các bạn! Soul nghe! Giật
soul dễ ẹt, cứ tán loạn lên là được.
Tiếng đàn vang lên thôi
thúc, tưng bừng. Một vài tay bước ra giữa vòng tròn khơi mào cuộc nhảy múa.
Những bước chân quay cuồng bên ánh lửa bập bùng. Rồi cả bọn đều đứng lên vào
cuộc. Có người ôm theo cái can hoặc cái xoong vừa nhảy vừa gõ đập. Đêm rung lên
trong những âm thanh khuấy động. Trên bầu trời mênh mông thăm thẳm, những vì
sao lóng lánh xa xăm dường như cũng đang nối nhau trong một khúc luân vũ yểu
điệu nhịp nhàng.
Đêm đã rất sâu. Có lẽ
chỉ còn dăm chục phút nữa là tới thời điểm giao thừa. Trường hý hoáy lắp lại
pin vào chiếc máy thu thanh nhỏ xíu hiệu National của anh. Chiếc máy chỉ được
nghe mỗi ngày một tiếng, ở những giờ có chương trình ngâm thơ và kể chuyện đêm
khuya. Bầu không khí cũng trầm lắng xuống không biết tự lúc nào. Toàn bộ doanh
trại khối Trung đoàn bộ lặng im. Mọi người chỉ trò chuyện, tâm sự với nhau một
cách khẽ khàng như không dám làm rạn vỡ những giây phút thiêng liêng. Huy ngồi
bó gối, gục đầu xuống, cảm thấy thân thể anh đang xoay tròn, rơi rơi mãi xuống
một vực sâu mà không tới đáy. Anh đã uống khá nhiều rượu nặng, đã nôn mửa mấy
lần từ khi nãy cho tới khi chỉ còn nôn ra được một chút chất lỏng lầy nhầy,
đắng nghét. Chí phèo lay lay vai Huy:
- Huy, Huy, mày cố uống
tí nước trà cho giã rượu nè.
Huy lúc lắc đầu, rồi ngả
vật ra, nằm co người lại. Anh vẫn nghe thấy những tiếng nói lao xao, văng vẳng,
nhưng chân tay thì rã rời, mềm như bún. Anh nằm mơ màng, nửa tỉnh nửa mê như
vậy không biết bao lâu. Bỗng anh nghe một tràng AK chát chúa. Rồi một tràng nữa.
Rồi tiếng súng, tiếng cối pháo nổ rền rền khắp mọi nơi. Huy mở mắt ra, cố gượng
chống tay ngồi dậy. Trên trời, màn đêm mênh mông bị rạch nát bởi những đường
vạch đỏ rực đan chéo vào
nhau như những cánh sao. Khói súng tỏa mù như sương và hăng nồng trùm lên
bầu không khí. Ở góc chân trời, đạn cầu vồng phát hỏa bùng lên thành những cụm
sáng đủ màu, những giải sáng vàng chanh pha đỏ, những giải màu cam tươi, xanh
lá thẫm chuyển sang lam, và phía ngoài cùng là màu tím ngát chìm hẳn vào màn
đêm thẳm. Âm thanh, sắc màu như cùng cất tiếng hát và đang nhảy múa. Đêm đẹp
rực rỡ. Một cái đẹp hoang sơ man dại. Những tràng pháo hoa đón giao thừa Xuân
1985 đã òa vỡ, vang lên ở một góc rừng tây bắc Campuchia như vậy đó.
[2] Bình Ngô Đại Cáo của thi hào Nguyễn Trãi: “…tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước
sông chén rượu ngọt ngào.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét