Thứ Ba, 4 tháng 12, 2012

SUY GẨM......



Bích chương cho biểu tình chồng đường lưỡi bò

China1Sau đây là những bích chương ông Dương Danh Huy thiết kế cho cuộc biểu tình tại Paris năm 2011 về sự kiện cắt cáp Bình Minh 2 và Viking II năm đó.
 Ông Dương Danh Huy nói:
 Tôi không nói gì về câu hỏi “Có nên biểu tình trong nước hay không?”, nhưng tôi cho rằng nếu biểu tình, dù là trong nước hay ở nước ngoài, thì những thiết kế bích chương này có thể góp phần cho việc đa phương hóa và quốc tế hóa các vấn đề Biển Đông.
Ảnh do ông Dương Danh Huy gửi.
clip_image002
clip_image004
clip_image006
clip_image008
clip_image010
clip_image012
clip_image014
clip_image016
clip_image017
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 06:59 




Vì sao tôi viết?


Huy Đức
h13NQL:  Sau hai mươi năm sưu tập tư liệu, ba năm bốn tháng lao động miệt mài, hôm nay – 7/12/2012 – là ngày chính thức phát hành bộ sách Bên thắng cuộc  hơn nghìn trang của Huy Đức. Chúc mừng anh!
Chắc chắn bộ sách này sẽ gây một cơn địa chấn không nhỏ cho người Việt.  Hy vọng quan chức nước nhà đọc Bên thắng cuộc vì Huy Đức viết bộ sách này trước hết dành cho họ. Nếu họ đón nhận bộ sách này một cách bình tĩnh và công bằng, chăm chú đọc nó với tâm thức của một người yêu nước,  nhất định họ sẽ thu hoạch được một điều gì đó không nhỏ, nếu không muốn nói là lớn lao, đặng giúp cho đất nước đi đúng hướng về tương lai, một tương lai đích thực.
Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách nhiệm.
 Cuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra.
 Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “20 năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: Phải nhanh chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.
 Nhưng hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.
 Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe – buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.
 Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh… được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày[1], Thép Đã Tôi Thế Đấy[2]… Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.
 Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kênh trong những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất sắp đặt lại giang san” của những người vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam… Chứng kiến cũng những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa tới.
 Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của Trần Ngọc Phong[3], một người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần mang tới cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh”. Những năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô, vừa mỏi mòn đợi khách vừa kín đáo đọc sách. Nhiều người trong số họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt đầu tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy…
 Mùa Hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ báo Tuổi Trẻ như Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Huỳnh Thanh Diệu, Nguyễn Tuấn Khanh, Huy Đức… Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế Thanh, Cam Ly, Phan Xuân Loan… Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức Tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích.
 Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách.
 Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975, cũng trở thành sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhiều người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình.
 Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980, nhiều chính sách làm thay đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”[4], như “Z 30”[5] cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ chính trị cũng không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền. Không chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương tri cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm.
 Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế chính trị học và các nhà xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ bắt đầu kể những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo; đánh tư sản; đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, nói về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.
 Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm, và trong vòng ba năm (từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012) tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học, trong đó có 5 nhà sử học uy tính của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách này đến tay bạn đọc.   
 Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, chắc chắn sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản sau.
 Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.
 Sài Gòn – Boston (2009-2012)
…………………………
 [1] Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc.
 [2] Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.
 [3] Đạo diễn điện ảnh.
 [4] Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
 [5] Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983).





Mùi Việt gian


403169_505390839481155_1644810120_nTrịnh Kim Tiến
NQL: Trịnh Kim Tiến có tiêu đề là“Cam kết không bán hàng Trung Quốc” thì dẹp?, đó là tiêu đề phản ảnh vụ việc kì  khôi đã xảy ra đối với gian hàng của chị. Qua đó ta ngửi thấy rất rõ mùi Việt gian nồng nặc đã bốc lên từ  lâu, nhiều người ngửi thấy từ lâu nhưng không ai dám kêu lên. Cảm ơn TKT, chị đã kêu lên đúng lúc ôngĐỗ Văn Hậu-Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, tuyên bố tàu cá Trung Quốc ‘vô tình’ làm đứt dây cáp tàu Bình Minh 2.
Một tuần nay, cứ đều đặn buổi sáng đến công ty làm việc, buổi chiều tối bày đồ trẻ em ra bán trước cửa công ty. Từ ngày bán đồ trẻ em, ngoài việc có thể kiếm thêm được một chút tiền để ổn định cuộc sống, tôi còn cảm thấy hạnh phúc hơn khi nhìn thấy những nụ cười hồn nhiên thơ ngây khoác lên mình những chiếc áo, chiếc váy mang xuất xứ không phải từ Trung Quốc. Những bộ đồ trẻ em mà tôi bán đều được tôi lựa chọn kĩ càng, tôi chỉ nhập hàng Việt và hàng Thái để bán cho khách. Với mong muốn “người Việt Dùng hàng Việt, tẩy chay, tránh xa các sản phẩm độc hại từ Trung Quốc”, dù có hôm chỉ bán một bộ đồ, tôi vẫn cảm thấy mình đã làm được một việc có ích.
 Điều mà tôi đã và đang làm chỉ là một điều vô cùng nhỏ nhoi, có thể nhiều người cho rằng vô ích trong cái “biển rác thải khổng lồ” hàng hóa Trung Quốc nhưng lại khiến tôi hứng thú và pha lẫn chút niềm vui của riêng mình. Trước đây, dù không muốn trả tiền cho nỗi đau sử dụng hàng Tàu nhưng tôi chưa nghĩ ra cách tháo gỡ cho thói quen mua sắm. Từ ngày mở quầy bán đồ trẻ em, tôi lại có thêm một cách riêng để chọn lựa, cách riêng để tẩy chay hàng hóa độc hại Trung Quốc.

 Công ty tôi làm có hai mặt tiền, mặt đằng trước hướng ra phía đường, còn mặt tiền thứ 2 là vỉa hè trong hẻm. Mỗi hộ kinh doanh ở những khu vực này được để ra 1m vỉa hè dựng xe. Cứ khoảng 5 chiều mỗi ngày tôi dọn hàng ra bán trên vỉa hè trong hẻm và 11 giờ thì dẹp hàng vào trong.
Có vẻ quầy hàng của tôi rất được nhận rất nhiều sự ủng hộ của mọi người, mỗi ngày mỗi đông, người bán thì niềm nở, khách hàng thì tươi cười vui vẻ, ai cũng rất an tâm vì vừa mua được hàng rẻ, chất lượng mà lại không phải là hàng Trung Quốc. Nhiều khi thấy khách hàng thoải mái và tin tưởng, tôi lại khúc khích cười một mình.
Sau một tuần mở quầy hàng, hai tối nay chúng tôi bị “người ta” kéo đến dẹp và tịch thu đồ. Trong khi đó, ngay cạnh bên, người ta bán quán ốc, bày ra vỉa hè nhậu nhẹt thì lại không vấn đề gì. Điều lạ là ngày hôm trước có hai thanh niên nhìn mặt rất “an ninh” đến quầy hàng của chúng tôi, chọn một bộ đồ trẻ em, xem rất kĩ rồi xin tôi 2 chiếc túi nilon “tẩy chay hàng độc hại Trung Quốc”. Hôm sau và liên tiếp hôm nay xe công an phường đến dẹp hàng. Họ còn tiến thẳng đến quầy hàng của tôi giằng co đồ đem lên xe. Thậm chí họ còn xông vào nhà, cướp đồ mang ra xe, hành động không khác gì những tên cướp.
 Xung quanh có biết bao nhiêu người kinh doanh vỉa hè nhưng họ không quan tâm tới, chúng tôi ngồi dẹp vào vỉa hè trong hẻm không phải vỉa hè chính nhưng lại nhận được sự quan tâm đặc biệt. Bán hàng thì phải treo biển và tôi cảm thấy chiếc biển của tôi đề “cam kết không bán hàng Trung Quốc” không có gì là sai?
 Một người phụ nữ thân hình mập mạp, còn đòi thu máy ảnh của anh Thành – chồng tôi, khi anh chụp lại cảnh họ lao vào giật đồ. Tôi bức xúc hỏi bà ta là ai? Bà ta trả lời bà ta là dân! Là dân mà lại có đặc quyền thu máy ảnh của người khác? Một anh trật tự phường đứng ra bênh vực “cô ấy là trưởng hộ kinh doanh của phường. Cô ấy không có quyền nhưng người khác có quyền ấy”. Tôi chỉ tay thẳng mặt anh ta “kể cả anh cũng không có quyền ấy, công dân có quyền giám sát cơ quan chức năng làm nhiệm vụ, nếu các anh làm đúng thì có gì mà phải sợ bị chụp lại”. Hình như họ đang cho rằng “luật là tao, tao là luật”, muốn làm gì thì làm thì phải? Thậm chí tôi treo quần áo trên tường của công ty, không bày ra vỉa hè mà họ cũng nói là không được.
 Họ cố tình nhắm vào quầy hàng của tôi, tôi chắc chắn điều đó. Nhưng vì sao? Vì “cam kết không bán hàng Trung Quốc” ư?  Một câu hỏi khiến tôi nhức nhối khi nghĩ đến câu trả lời…






XUI DÂN ĐI KIỆN

Công Nông
ThanPhanNguoiVo3NQL: Ngày hôm nay mình đọc báo lề đảng lề dân cả thảy 19 bài về ông Nguyễn Bá Thanh, kinh!
– Bác Nông nói có ông quan, í quên vị lãnh đạo nào lại xui dân đi kiện không?
- Vớ vẩn! Quan mà lại xui dân đi kiện, có mà loạn! Chú không thấy các bác lãnh đạo lúc nào cũng nói ổn định, ổn định đó à?
- Thế mà có vị lãnh đạo xui dân, hay nói đúng hơn là khuyên doanh nghiệp kiện chính quyền ra tòa đấy.
- Ông nào mà ngược đời thế?
- Ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.
- Lại ông Bá Thanh à? Ông này mà làm thì có khi ngược đời  cũng hay đấy nhé. Chuyện thế nào?
- Sự thể là Cty Khải Hoàn Nguyên đã đóng 10,2 tỉ đồng cho ngân sách của thành phố để được giao 5.638m2 đất làm nhà xưởng. Thế nhưng tiền thì đóng đã 2 năm nay, mà đất thì đến nay vẫn chẳng thấy đâu. Chính xác hơn là thấy thì vẫn thấy, nhưng giao thì vẫn chẳng được giao.
- Sao mà kỳ cục thế? Tiền trao thì cháo phải múc chứ? Hay là chưa trao cái tiền… “nhạy cảm” í?
- Thế mới có chuyện. Một ngàn lẻ một lý do đã được các ban, ngành của thành phố đưa ra để giải thích tại sao “tiền đã trao” mà “cháo lại chưa múc”.
- Thế ông Bá Thanh nói sao?
- Tại buổi làm việc với các ban, ngành của thành phố về vấn đề này, ông Nguyễn Bá Thanh đã đề nghị hoặc là UBND TP giao đất (có tính đến thiệt hại của Cty) ngay trong tháng 12 này, hoặc là Cty sẽ đứng ra khởi kiện UBND trước toà án. Và ông sẽ hỗ trợ cho Cty trong việc kiện tụng này.
- Hay! Phải như thế thì bộ máy quan liêu mới chịu động đậy.
- Nhưng mà em vẫn thấy thế nào ấy. Ông Bá Thanh là bí thư Thành ủy, Đảng lãnh đạo chính quyền, sao phải nhờ đến Tòa án phân xử?
- Chú mày đừng câu nệ chuyện đó. Đảng lãnh đạo nhưng không được làm thay. Việc gì đáng ra tòa thì để tòa xử lý là đúng, Đảng can thiệp làm gì. Kiện là quyền của người dân. Người ta kiện đúng nơi, đúng chỗ, đúng quy định của pháp luật, tòa xét xử quang minh chính đại, thì không thể nói là mất ổn định được.  
- Bác nói đơn giản nhỉ?
- Cuộc đời này vốn đơn giản mà chú. Chỉ tại “một bộ phận không nhỏ” nó làm cho phức tạp lên thôi.
- Bác nói thế thì em về cũng kiện ra tòa thôi, miếng đất nhà em tranh chấp mấy năm rồi. Chính quyền cứ khất lần, khất lừa mãi có chịu xử lý đâu.
- Kiện cũng được. Nhưng mà chú mày đã có ấy chưa mà dám đi kiện?
- Bác nói tiền à?
- Đây không nói chuyện ấy
- Thế thì là gì?
- Tớ hỏi chú đã có… “ông Bá Thanh” nào chưa?

GS Carl Thayer: ‘VN nên có dấu riêng đặc trị ‘hộ chiếu lưỡi bò’

C147381_qp-ht-2511-qp-200NQL: Cảm ơn giáo sư Carl Thayer. Sáng kiến của ngài rất hay nhưng chắc chắn Việt Nam không dùng, vì sao thì ngài biết rồi.
Đất Việt đã có cuộc trao đổi ngắn với giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Australia, về vấn đề có liên quan đến hộ chiếu mới của Trung Quốc.Sau đây là nội dung cuộc trò chuyện.
- Thưa giáo sư, Trung Quốc vừa cấp cho công dân sự dụng hộ chiếu mới có in hình đường 9 đoạn, còn gọi là “đường lưỡi bò” trên biển Đông, xâm phạm trắng trợn chủ quyền Việt Nam? Việc in bản đồ vào hộ chiếu đã có tiền lệ chưa hay là “sự sáng tạo” của riêng Trung Quốc?
- Tôi đã được biết thông tin này qua VOA. Tôi cũng được biết Việt Nam đã áp dụng một vài biện pháp đối phó với tình trạng này. Tôi không biết về các loại hộ chiếu trên thế giới, nhưng theo những gì tôi biết, hiện chưa hề có tiền lệ nào như thế cả.
Tôi nghĩ, đối phó với trường hợp này, các bạn nên sử dụng một con dấu đặc biệt, chỉ rõ rằng: Chúng tôi đồng ý cho người sở hữu hộ chiếu này nhập cảnh, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Việt Nam công nhận tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, được in trên tấm bản đồ mới. Tại những nơi làm thủ tục nhập cảnh, các bạn nên xếp riêng những người có tấm hộ chiếu mới sang một khu riêng biệt để tiện cho việc đóng dấu.
- Cư dân Trung Quốc khi nhập cảnh vào những quốc gia có dính líu trực tiếp vào cuộc tranh chấp này có thể sẽ bị từ chối, nhưng với những quốc gia khác, không liên quan tới những tranh chấp này, họ sẽ vẫn được thông quan. Điều này có thể được hiểu là các nước khác công nhận những khu vực tranh chấp đều thuộc về Trung Quốc không, thưa giáo sư?
- Việt Nam đã có rất nhiều bằng chứng cho thấy trong lịch sử, Việt Nam đã xác lập chủ quyền trong khu vực đó: có chính quyền, có người dân ở…
Theo tôi, việc sử dụng một con dấu đặc biệt như tôi nói ở trên có thể giải được 2 bài toán: Thứ nhất, các bạn vẫn thể hiện được sự phản đối của mình trước những tuyên bố của Trung Quốc.Thứ hai, không khiến cho tình hình trở nên căng thẳng.
Con dấu đặc biệt in trên hộ chiếu sẽ có giá trị hàng trăm năm sau, như một minh chứng cho thấy sự phản đối của Việt Nam.
- Xin cám ơn ông về cuộc trò chuyện này!

Nỗi cay đắng của một đồng minh


image0026
Lê Mai
Những “màn trình diễn sành điệu” liên tiếp của TQ trên biển Đông làm cho VN – một đồng minh “thân thiết” của TQ không thể không cảm thấy cay đắng. Đúng hơn, người dân VN cảm thấy đầy cay đắng.
Lịch sử VN có rất nhiều bài họcvề đồng minh, vấn đề là người ta có chịu học hay không? Khi quân Bắc VN sắp tràn ngập Saigon, có người rỉ tai ông Dương Văn Minh, hãy để TQ thu xếp mọi chuyện. Song, ông Minh đã từ chối. Ông nói, chúng ta đã hết theo Pháp rồi theo Mỹ, cũng không đưa lại gì cho đất nước. Vậy bây giờ theo TQ phỏng có ích gì? Thật đúng là một lời tiên tri!
Làm một đồng minh trong cuộc chiến ý thức hệ, dù sao vẫn có niềm kiêu hãnh riêng của nó. Anh em nhà Ngô chống Cộng rất mạnh mẽ song họ không để Hoa Kỳ thao túng toàn bộ đất nước. Họ nhất quyết không cho người Mỹ sử dụng cảng Cam Ranh, cũng không đồng ý cho đưa quân vào (miền Nam), chỉ đồng ý cử cố vấn quân sự và viện trợ kinh tế thôi. Người Mỹ rất bực tức và ra tay hành động, thế là nền Đệ nhất Cộng hòa buộc phải cáo chung. Dù sao, cho đến giây phút cuối cùng, về mặt con người, họ vẫn giữ được tư thế. Đại tá Nguyễn Hữu Duệ kể lại, ông xin phép Tổng thống đem xe tăng, thiết giáp lên Bộ Tổng tham mưu để bắt các tướng lãnh và dẹp đảo chính nhưng Tổng thống không cho. Ông Cao Xuân Vỹ thưa: “Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng thống. Chẳng lẽ để phải chết hay sao”? Ông quát lên: Chết thì đã sao? Xét riêng về thái độ ấy, thật khác xa những người được gọi là “lãnh đạo” đất nước, chỉ cố bám vào cái ghế quyền lực để vinh thân, phì gia, trong khi cả tài năng và đạo đức của họ nếu chấm điểm thì chắc rằng chỉ được “điểm dưới không”. Họ đáng “xấu hổ hơn cả sự xấu hổ”.
Nền Đệ nhị Cộng hòa vẫn không thoát ra khỏi cái bóng của đồng minh lớn Hoa Kỳ – tất nhiên. Nhưng khi chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ thay đổi, VNCH không còn là ưu tiên trong chính sách của họ nữa, họ sẵn sàng bỏ rơi đồng minh. Nỗi cay đắng của một đồng minh không tương xứng càng thêm sâu sắc. Người Mỹ đàm phán bí mật với Bắc VN nhưng không cho đồng minh biết. Rồi họ ép VNCH ký Hiệp định Pari. Thiệu không thể không ký, dù cố sức chống đỡ, dù viện hết lý do này đến lý do khác. Thậm chí, Nixon còn nói với Kissinger về Thiệu: “Không thể để cái đuôi chó vẫy được con chó”. Tất cả đã an bài, người Mỹ nhất quyết ra đi. Một khi người Mỹ đã ra đi thì Nam VN khó mà chống nổi cuộc tấn công của Bắc VN. Bài học rút ra, làm đồng minh với nước lớn thật không hề dễ dàng.
Rồi đến nước VN thống nhất, đồng minh thân thiết của đại gia đình XHCN mà đứng đầu là LX. Nỗi cay đắng của một đồng minh vẫn còn tiếp tục. Nước VN có bốn ngàn năm lịch sử vẫn phải đi xin viện trợ khắp thế giới. Người phụ trách chính về vấn đề này là Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị.“Trời sinh ra anh Nghị. Lại sinh ra cái bị. Anh đi khắp năm châu. Kinh tế vẫn tắc tỵ” (thơ tướng Đinh Đức Thiện). Có cay đắng nào hơn?
Không phải lúc nào các nước cũng sẵn sàng giúp VN. Hòa bình rồi, chúng mày phải tự làm lấy mà ăn chứ, chúng tao cũng chẳng giàu có gì – đám chuyên viên các nước không dấu vẻ khinh bỉ nói với đám chuyên viên VN khi họ tháp tùng  “các Cụ” lãnh đạo. Còn ông Võ Văn Kiệt, từ Saigon ra Hanoi giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch nhà nước, theo thông lệ, liền đi các nước xin viện trợ và ông đã thấy rõ thế nào là sự cay đắng. Về nước, ông quyết tâm thay đổi cách làm. Cả ông Trường Chinh cũng vậy. Sang Moscow, ông không còn có thể “xin xỏ” gì ở Goócbachốp nữa, vì bấy giờ LX tự lo cho họ còn chưa xong, nói gì VN. Ông đành trở về và hạ quyết tâm “đổi mới hay là chết”!?
Bây giờ, chúng ta nói về đồng minh lớn TQ. Nỗi cay đắng đối với đồng minh “thân thiết” này càng chưa thể chấm dứt. Không cần nhìn lại lịch sử, chỉ gần đây thôi, TQ cũng đã gây cho VN biết bao nhiêu là cay đắng. Vẫn là nỗi cay đắng của một đồng minh không tương xứng. Càng cay đắng hơn nữa khi mà TQ hết bày ra trò ngang ngược này đến trò ngang ngược khác mà VN vẫn cứ “an nhiên chịu đựng”? Người dân VN tự hỏi, vì sao và vì cái gì? Và thế giới cũng sẽ đặt câu hỏi tương tự. Dù câu trả lời đã rõ ràng thì nỗi cay đắng của một đồng minh đã và sẽ vẫn tiếp tục…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét