Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2012

Về Bộ Tranh Trâu . . . . . . . 3


THI TỤNG của PhỒ MINH THIỀN SƯ
I.- CHƯA CHĂN
 Sanh nanh đầu giác tứ bào hao
 Bôn tẩu khê sơn lộ chuyển dao
 Nhất phiến hắc vân hành cốc khẩu
 Thùy tri bộ bộ phạm gia miêu
 Đầu sừng hung bạo kêu la
 Ngược xuôi rừng suối đường xa dặm ngàn
 Mây đen một dải ngoài hang
 Lân la từng bước gậm càn mạ non
II.- MỚI DẮT
 Ngã hữu mang thằng mạch tị xuyên
 Nhất hồi bôn cạnh thống gia tiên
 Tùng lai liệt tánh (khuyết ba chữ)
 Do đắc sơn đồng tận lực khiên
 Dây thừng xỏ mũi ta lôi
 Một phen bứt chạy, lằn roi nặng nề
 Vốn xưa dở tánh (.......)
 Bây giờ chú mục sẵn kề một bên
III.- CHỊU KHÉP
 Tiệm điều tiệm phục tức bôn trì
 Đồ thủy xuyên vân bộ bộ tùy
 Thủ bả mang thằng vô thiểu hoãn
 Mục đồng chung nhật tự vong bì
 Dần dà chịu khép mọi đường
 Băng mây vượt nước dặm trường có nhau
 Nắm dây ta giữ lấy đầu
 Một ngày mệt lả ra mầu nhởn nhơ
IV.- QUAY ĐẦU
 Nhật cửu công thâm thủy chuyển đầu
 Điên cuồng tâm lực tiệm điều nhu
 Sơn đồng vị khẳng toàn tương hứa
 Do bả mang thằng thả hệ lưu
 Ngày qua tháng lại lần khân
 Hung hăng cuồng dại mấy phần chịu buông
 Chú chăn ghé mắt trông chừng
 Trong tay còn vững dây thừng chưa lơi
V. NGOAN NGOÃN
 Lục dương âm hạ cổ khê biên
 Phóng khứ thâu lai đắc tự nhiên
 Nhật mộ bích vân phương thảo địa
 Mục đồng quy khứ bất tu khiên
 Dương xanh rủ bóng bên nguồn
 Buông đi kéo lại ra tuồng thảnh thơi
 Cỏ non, nắng quái, mây trời
 Chú chăn thả bước tay lơi sợi thừng
VI.- KHÔNG NGẠI
 Lô địa an niêm ý tự như
 Bất lao tiên sách vĩnh vô câu
 Sơn đồng ổn tọa thanh tùng hạ
 Nhất khúc thăng bình lạc hữu dư
 Giữa trời ru giấc thong dong
 Khỏi công roi vọt, nhọc lòng kéo lôi
 Cội từng chú mục ngồi chơi
 Sáo lên vi vút nối lời vu vơ
VII. - BỎ MẶC
 Liễu ngạn xuân ba tịch chiếu trung
 Đạm yên phương thảo lục nhung nhung
 Cơ xan khát ẩm tùy thời quá
 Thạch thượng sơn đồng thùy chánh nồng
 Làn xuân, nét liễu tà dương
 Khói un cỏ biếc trông chừng dặm xa
 Đói ăn khát uống la đà
 Gối tay trên đá người ru giấc nồng
VIII. QUÊN NHAU
 Bạch ngưu thường tại bạch vân trung
 Nhân tự vô tâm ngưu diệc đồng
 Nguyệt thấu bạch vân vân ảnh bạch
 Bạch vân minh nguyệt nhiệm tây đông
 Mây trời, trâu trắng một màu
 Lòng người thơ thẩn, lòng trâu hững hờ
 Bóng trăng qua lớp mây đưa
 Mây treo cõi bắc, trăng tà cõi đông
IX. MỘT BÓNG
 Ngưu nhi vô xứ mục đồng nhàn
 Nhất phiến cô vân bích chướng gian
 Phách thủ cao ca minh nguyệt hạ
 Qui lai do hữu nhất trùng quan
 Chú chăn thư thả không trâu
 Làn mây vời vợi trên mầu non xanh
 Vỗ tay ca, bóng trăng ngàn
 Nẻo về quê cũ tấc giang ngại gì
X.- VẮNG HẾT
  Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung
 Minh nguyệt quan hàn vạn tượng không
 Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
 Dã hoa phương thảo tự tòng tòng
 Người, trâu vết tích là đâu ?
 Trăng buông lạnh lẽo một bầu hư không
 Hỏi thăm một lẽ tơ lòng
 Kìa xem cỏ nội hoa đồng, chăng nhe ?
______________

CỰ TRIỆT THIỀN SƯ HỌA TRANH TRÂU TRẮNG
I.- MẤT TRÂU
 Trâu ở phía tây, mặt hướng về tây.
Mục đồng ở phía đông, mặt hướng về đông.
 Ngưu thượng ngưu hề, đồng thượng đồng
 Ngưu đồng bối hướng các tây đông
 Tiêm trần bất cách hà tiêu nhưỡng
 Khoáng kiếp lai kim uổng tự hoăng
 Chú, trâu, này chú nọ trâu
 Chú, trâu hai ngả hai đầu đông tây
 Bụi hồng cách một rèm mây
 Thiên thu lơ láo những ngày lang thang
II.- TÌM TRÂU
 Chủ nhân hỏi trâu ở đâu?
Mục đồng lơ láo.
Lại có một người từ phía tây đi đến, đưa tay chỉ về xa.
 Hốt hương sơn đồng vấn bạch ngưu
 Sơn đồng võng thác bất tri cầu
 Bàng nhân thức đắc ngưu tung tích
 Chỉ điểm sơn đồng cấp chuyển đầu
 Thoắt đâu gạn hỏi sơn đồng
 Mặt trơ mày dạn biết chừng là đâu
 Có người hay được vết trâu
 Đưa tay chỉ chú quay đầu về tây
III.- THẤY TRÂU
 Chú nhắm phía tây mà chạy ;
thấy có nhiều dấu chân trâu trong đồng ruộng.
 Đê hối mạch chuyển hướng khê tây (tê)
 Nhất lộ thâm đề gián thiển đề
 Đoan đích tân tri tầm cựu thức
 Nhân ngư đáo thử lưỡng vô mê
 Quanh co đèo suối về tây
 Dấu chân rải rác thưa dày chen nhau
 Đường kia nỗi nọ cơ cầu
 Lần theo vết cũ đã hầu gặp nhau
IV.- THẤY TRÂU
 Trâu trắng nằm yên trong đồng ruộng,
đồng tử nôm thấy, vui mừng.
 Hạnh tận sơn thôn quá thủy thôn
 Hảo trung hốt kiến bạch ngưu tôn
 Hân hân ổn bộ phương khinh khoái
 Suyễn tức sơ điều dữ tế luân (luận)
 Trải bao xóm nước làn mây
 Thoắt trông một cổ ở ngoài đồng hoang
 Nhẹ chân cất bước vội vàng
 Nén hơi kéo lại, nỗi mừng thấp cao
V.- ĐƯỢC TRÂU
 Trâu trắng từ từ đứng dậy.
Đồng tử vui vẻ, vuốt ve lưng nó.
 Bạt thiệp khê sơn khởi đạn lao
 Bạch ngưu đốn hoặch giá di cao
 Khoái tâm cửu biệt trùng tương khế
 Thiện phủ thung dung hỉ phục thao
 Rừng khe bao quản lội trèo
 Đã may gặp gỡ già nào trọng hơn
 Xa nhau mấy nổi nguồn cơn
 Thong dong tay ướm tay nâng vỗ về
VI.- GIỮ TRÂU
 Đồng tử rỗi rãi ngồi trên tảng đá.
Trâu trắng uống nước suối bằng thích.
 Ngư thích nhân nhàn khước sấu phì
 Phong thanh nguyệt bạch cửu vong ki
 Ư hương dã lục doanh sơn cốc
 Kỉ độ triêu huy ánh tịch huy
 Mặc trâu không nại béo gầy
 Trăng trong gió mát quên ngày đói no
 Hương rừng cỏ núi mịt mù
 Buâng khuâng nắng sớm đong đưa bóng chiều
VII.- CƯỠI TRÂU
Bóng chiều gác núi,
trâu trắng về ràng,
mục đầu vắt vẻo trên lưng,
thổi sáo làm vui.
 Phóng khoảng kị qui thế sở hi
 Liễu ti tiên ảnh nhiệm phong huy
 Sơn đồng suy triệt vô sinh khúc
 Địch vận như huy nhập cấm vi
 Nghêu ngao lưng gối ai tày
 Liễu tơ nghiên gió thoáng đầy bóng roi
 Sơn đồng thổi khúc vui đời
 Tà dương ruổi vận vào nơi cấm đình
VIII.-  QUÊN TRÂU
 Trăng sáng trên trời,
mục đồng vỗ tay ca hát một mình.
 Bạch cổ hồn vong vô thặng trung
 Sơ cuồng mục thụ khiếu cô phong
 Sơn hà đáo ảnh thiềm thừ chuyển
 Ngọc lộ linh linh quang ảnh trùng
 Bóng trâu vắng bặt am hao
 Mục đồng cao hứng lên gào đỉnh xa
 Nước non nghiêng, ánh trăng tà
 Mà khuya điểm trắng sương pha lạnh lùng
IX.- VẮNG HẾT
Người và trâu đều không thấy,
chỉ có một vòng tròn.
 Lâu các trùng trùng đạn chỉ khai
 Bổn vô dư khiếm thất ban tài
 Không truyền ngủ thập tam gia xú
 Dẫn khước nhân ngưu đại mộng hồi
 Khảy tay Lầu các chập chùng
 Giàu sang bảy báu chưa từng thiếu dư
 Hỏi chi thói Đáo hồ đồ
 Giấc mơ Nhân Ngã bây giờ hoàn không
Phụ chú: Thiện tài Đồng tử theo lời dạy của Bồ tát Văn Thù, đã đi hỏi Đạo trải qua năm mươi ba chỗ. Khi đến hỏi Đạo với ngài Di Lặc, trong một thoáng gặp gỡ, Thiện Tài nhớ lại hết cả con đường dài đã trải qua, bất giác nhìn lại hai tay đầy cả hoa trời. Sau đó, ngài Di Lặc dẫn Thiện Tài vào lầu các Vairocona (Quang minh biến chiếu), vừa khảy móng tay, tức thì cánh cửa mở rộng, Thiện Tài thấy mình bước vào một thế giới giao ánh nhau trùng trùng vô tận. Thiện Tài, có nghĩa là người sinh ra cùng lúc với bảy báu cao quí nhất, và người đó từ khi mới sinh đã là bậc sang cả như một hoàng đế của thiên hạ.
Người chăn trâu đến lúc này như đã bước vào Pháp giới vô tận. Từ đây trở xuống, chỉ còn là hiện thần thông du hí tam muội mà rong chơi trong các cõi luân hồi, như đi vào chợ mà ngao du. Ngao du là chỗ rốt ráo của Bồ tát hạnh, vì nó tượng trưng cho ý nghĩa Vô Sở Trụ : Bồ tát không trụ sinh tử, cũng không trụ Niết Bàn. Chúng sinh lang thang như mục đồng tìm trâu mà không thấy vết tích. Bồ tát cũng lang thang trong trầm luân khổ hải, nhưng thong dong như mục đồng buông tay vào chợ.
X.- VÀO CHỢ 
 Đồng tử đi trước, hướng về phía Đông
(vì là đang đi vào cõi sinh tử) ;
trâu trắng lẽo đẽo theo sau.
 Mại lộng nhàn nhàn bạch cổ ngưu
 Nhập triền thùy thủ tứ ngao du
 Đồng lưu cửu giới cừu phong độ
 Tâm Phật chúng sinh vô biệt cầu
 Trâu theo đủng đỉnh mua vui
 Buông tay vào chợ dạo chơi phố phường
 Gió lành chín cõi đưa sang
 Này Tâm, này Phật, này hàng Tử sinh.
 Nguồn: www.quangduc.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét