Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2013

Góp Nhặt . . . Suy . . . Gẩm . . .





Chả có gì mãi mãi

Võ Trung Hiếu
questionNói theo duy vật và biện chứng
Và theo thuyết tiến hoá của ngài Darwin
Loài khỉ đợi một ngày đẹp giời để đi bằng hai chân
Và rồi loài người từ khỉ sinh ra …
Sáng nay bên tách trà cha con tôi ngồi tán gẫu cùng nhau
Sau khi khỉ thành người
Lẽ nào vũ trụ tạm dừng tiến hoá ?
Sau con người là loài gì ?
Sau tiền sử săn-bắn-hái-lượm là chiếm hữu nô lệ
Sau chiếm hữu nô lệ là vua tôi phong kiến
Sau phong kiến là tư bổn giãy chết
Là máy móc công xưởng, là đình công, là tăng ca
Là các ông chủ béo tốt và người làm thuê nhễ nhại mồ hôi
Là giá trị thặng dư, người bóc lột người
Sau tư bổn giãy chết là gì ?
Bấm chuông đi nào !
Là đáp án A hay đáp án B ?
Sau A hay sau B sẽ là gì ?
Có bao nhiêu người có cùng câu trả lời ?
Bạn đừng vội nhảy cẫng lên và toét miệng cười
Câu trả lời còn tuỳ bạn là ai và mang não trạng gì
Câu trả lời còn tuỳ bạn ở đâu và mang hộ chiếu gì
Câu trả lời dù uyên thâm súc tích, dù duy vật biện chứng đến đâu cũng chỉ là tương đối đúng
Câu trả lời còn lửng lơ ỡm ờ phía trước
Chỉ có thời gian mới đủ sức trả lời
Những gì con người biết, dù bị hay được, là vô cùng hữu hạn
Phải học thật nhiều, đến bạc cả đầu mới biết mình ngu
Trừ bánh vẽ ra
Chẳng có thứ gì trên đời tên là ” muôn năm “
Chẳng có thứ gì trên đời tên là ” mãi mãi “
Những thứ tưởng chừng đỉnh cao vĩ đại
Cũng sẽ qua mau như thì con gái
Xuân sắc mỹ miều cũng một lần thôi
Lấy thước vạn niên đo dọc triền đời
Ai nhất thời ?
Ai vạn đại ?
Những lời tỏ tình của bọn đàn ông xưa nay
Có thể do lú lẫn vì hóc- môn si mê
Vẫn hay có cái từ “mãi mãi “
Thế mà đàn bà cũng giả vờ tin …
Thời đại kim tiền
Bạn cứ nghĩ mà xem
Hạn sử dụng đang đính kèm mọi thứ
Tôi cố ngồi xem hết chương trình thời sự
Rồi tự lẩm bẩm chửi mình
” Muôn năm đồ ngu ! “
05.3.2013



Hổ hay là chỉ là mèo?


imagesNăm 1986, đứng trước những thách thức xã hội và khủng hoảng kinh tế, lãnh đạo Đảng và nhà nước đã dám nhìn thẳng vào sự thật để chấp nhận đổi mới mà trước hết và quan trọng nhất là đổi mới về tư duy. Đặc trưng của đổi mới từ cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 là chấp nhận những quy luật kinh tế thị trường, cho phép kinh tế tư nhân phát triển, và mở cửa cho kinh tế đối ngoại.
Kết quả của những đổi mới về nhận thức là sự ra đời của các đạo luật chưa từng có trong tiền lệ như Luật đầu tư nước ngoài 1987, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp Tư nhân cuối năm 1990.
Tiếp sau đó, Việt Nam tiến hành đàm phán bình thường hoá quan hệ với các nước từng đối đầu với mình và đã có những bước đi mạnh mẽ trong đối ngoại với các nước ASEAN, Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu vào năm 1995.
Kết quả của đợt đổi mới này là Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao nhất trong lịch sử vào các năm 1995 và 1996 (lần lượt là 9,5 và 9,34%) và dòng đầu tư nước ngoài cũng đạt kỷ lục trong năm 1996 (trên 8 tỷ USD cam kết)1. Đến giữa những năm 1990, cải cách đã giúp Việt Nam cơ bản thoát khỏi khủng hoảng và đưa mức sống của người dân lên cao một bước.
Đổi mới 2.0?
Tuy vậy, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 đã đặt Việt Nam vào nguy cơ đánh mất đà tăng trưởng và những thành quả đạt được sau một thập kỷ đổi mới. Trong hai năm 1998 và 1999, tăng trưởng GDP của Việt đang từ xấp xỉ 9.5% xuống thấp kỷ lục là 4.8% năm 1999.
Trước tình hình đó, nhiều học giả trong và ngoài nước đã kêu gọi chính phủ tiến hành cải sâu rộng hơn nữa bởi những cải cách từ sau Đổi mới 1986 đã phát huy hết tác dụng2.
Tác động ngày càng sâu rộng của cuộc khủng hoảng đã đặt ra yêu cầu “Đổi Mới II” cho Việt Nam. Tuy nhiên, trong nội bộ ta lúc đó đã có sự tranh luận và phản biện rất gay gắt về lựa chọn hướng đi cho Việt Nam khi đất nước bước vào những năm đầu của thế kỷ 21.
Hãy lấy một ví dụ cụ thể cho thấy cuộc đấu tranh về tư tưởng và nhận thức đã diễn ra mạnh mẽ như thế nào lúc đó: quá trình đàm phán và ký kết Hiệp định Thương mại Việt Mỹ.
Theo ông Nguyễn Đình Lương, Trưởng đoàn phán của Việt Nam, hai bên bước vào cuộc đàm phán với nỗi ám ảnh về một cuộc chiến đã đi qua với bao đau thương, mất mát cho cả hai dân tộc. Điều đó gây ra sự nghi kị, thiếu lòng tin, nhất là cho phía Việt Nam. Nhưng cao hơn hết là rào cản tư duy và ý thức hệ trong một số lãnh đạo lúc đó. Theo ông Lương, trong quá trình đàm phán, có người cho rằng Hiệp định thương mại này sẽ tạo cơ hội cho diễn biến hoà bình, phá huỷ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam do sự “xâm lăng” của hàng hoá và tư bản nước ngoài vào nền kinh tế non yếu của Việt Nam.
Ông Lương cũng cho biết, lúc đó có người đã liên tưởng đến câu nói của một trong những chính khách có ảnh hưởng nhất của Hoa Kỳ, Henry Kissinger: “Người Mỹ đã không thắng trong chiến tranh nhưng sẽ thắng ở thời bình – Americans did not win in the war but will do so in peace time”3.
Sau khoảng 3 năm đàm phán với nhiều nhân nhượng của cả hai phía, đến giữa năm 1999, hai bên đã thống nhất được hầu hết các điều khoản mang tính kỹ thuật và chỉ còn một bước là ký kết. Tuy vậy, rất bất ngờ, vào thời điểm đó, đoàn đàm phán nhận được thông báo tạm hoãn ký kết. Phải mất thêm một năm nữa Việt Nam mới đặt bút ký kết hiệp định này và được Quốc hội thông qua vào cuối năm 2001.
Như ông Nguyễn Đình Lương và Mai Liêm Trực thừa nhận, quá trình thay đổi nhận thức là một thách thức lớn nhất cho việc ký kết và dẫn đến nhiều tranh luận nội bộ gay gắt. Nhưng chính lợi ích dân tộc đã xoá đi những lo sợ, nghi kị để Việt Nam chấp nhận bản hiệp định. Và quyết định này là được chứng minh là đúng đắn khi nó mở ra cánh cửa cho Việt Nam ra nhập WTO năm 2006; và giờ đây Hoa Kỳ là một trong những đối tác thương mại hàng đầu và nhà đầu tư lớn nhất của Việt Nam.
Có thể nói, những năm 2000-2001đã mở đầu cho cuộc “Đổi Mới II” ở nước ta với những đặc trưng là tạo mặt bằng pháp lý bình đẳng cho các khu vực kinh tế (nhà nước, tư nhân, nước ngoài) và hội nhập sâu hơn nữa vào nền kinh tế thế giới. Sau Hiệp định thương mại Việt Mỹ là quá trình đàm phán gia nhập WTO với những cam kết cải cách luật pháp toàn diện và sâu rộng. Đỉnh cao của quá trình Đổi Mới II là năm 2005 khi Việt Nam đã thông qua hàng loạt đạo luật và chính sách đổi mới trước thềm gia nhập WTO vào năm 2006. Trong đó nổi bật là Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp với tư tưởng chính là tạo ra một khuôn khổ pháp lý thống nhất và công bằng cho các thành phần kinh tế phát huy hết nội lực. Kết quả của Đổi Mới II là nền kinh tế nước ta lại tiếp tục cất cánh khi đạt mức tăng trưởng lần lượt là 8.4 và 8.2% trong hai năm 2005 và 2006; tỉ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 19,5% năm 2004 so với 58% năm 19934.
Đổi mới 3.0?
Nhưng rồi một lẫn nữa, năm 2008 khủng hoảng kinh tế thế giới lại nổ ra và tác động mạnh mẽ đến mọi mặt kinh tế-xã hội của nước ta. Tăng trưởng đã giảm mạnh và trong hai năm vừa qua chỉ đạt lần lượt là 5.8 và 5.0 %. Từ năm 2008-2011, lạm phát trung bình là 16%/năm5. Bất động sản hầu như đóng băng. Đồng thời, sự phá sản của Tập đoàn Vinashin và làm ăn thu lỗ của nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã đặt nước ta vào một giai đoạn mới đầy thức thách.
Đứng trước những thách thức này, Đảng và Chính phủ đã nhận thức rõ được nhu cầu của đổi mới. Nhưng như lịch sử đã diễn ra, sẽ luôn có những trở lực cho đổi mới và quan trọng nhất vẫn là trở lực về nhận thức và tư tưởng.
Trước đổi mới 1986 và đầu những năm 2000, đã có không ít lo sợ, nghi kị về sự chệch hướng xã hội chủ nghĩa, về diễn biến hoà bình, về sự sụp đổ của hệ thống kinh tế nhà nước. Nhưng rồi, với sự sáng suốt của các nhà lãnh đạo, mà Việt Nam đã tìm cho mình lối đi đúng và dám chấp nhận chuyển hướng.
Vậy lần này thì sao? Từ năm 2008 Việt Nam đã được xếp vào các nước có thu nhập trung bình. Trong hai thập kỷ vừa qua chúng ta đã nỗ lực để thoát nghèo và chúng ta đã cơ bản thành công. Còn giờ đây thì không phải là thoát nghèo nữa mà là thoát ra khỏi “cái bẫy thu nhập trung bình”, để đưa Việt Nam cất cánh như các con hổ Châu Á: Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan.
Hổ hay là chỉ là mèo? Điều đó phụ thuộc vào việc Việt Nam có thể tiếp tục “Đổi Mới 3.0″ hay không. Các Hội nghị Trung ương 4,5,6 của Đảng năm 2012 đã thể hiện phần nào quyết tâm cải cách hơn nữa. Và đợt sửa đổi hiến pháp lẫn này sẽ là cơ hội lớn cho nước ta tháo những “nút thắt” hiện nay để khôi phục đà tăng trưởng và thành công trong công nghiệp hoá và hiện đại hoá vào năm 2020 như đã đề ra.Nhưng đổi mới lần này sẽ đòi hỏi những cải cách sâu rộng hơn nữa về thể chế và mô hình phát triển.
Chúng ta đã có nhiều luật mới, đã hội nhập kinh tế quốc tế khá sâu rộng rồi. Điều quan trọng nhất của đợt Đổi Mới 3.0 là nhấn mạnh vào khả năng giám sát và thực thi chính sách hiệu quả, cải cách quản lý nhà nước nhất là chi tiêu công, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Tất cả những điều này đòi hỏi thể chế hoá sự giám sát của người dân, luật hoá trách nhiệm giải trình của lãnh đạo.
———————-
Tài liệu tham khảo:
1.    Nguyen, Thi Minh Hien. (2007). Vietnam practice in investment-related policy formulation and the PFI. Paper presented at the ARTNet Consulstative Meeting on Trade and Invesment Policy Coordination . Bangkok, Thailand
2. Kokko, A. (1998). Vietnam: ready for Doi Moi II? SSE/EFI Working Paper Series in Economics and Finance, No. 286
3.    Nguyễn Đình Lương. (2010). Đàm phán Việt-Mỹ: Chuyện bây giờ mới kể. Tuanvietnam.net.
4.    Chu, H. T., & Dickie, P. M. (2006). Economic transition in Viet Nam: Doi Moi to WTO. Hanoi: Public Policy Training Program, Asian Development Bank.
5.    The Vietnam Consultative Group Meeting. (2011). Vietnam development report 2012: Market Economy for a middle-income Vietnam. Hanoi 








TIẾNG NÓI VIỆT NAM Ở TRƯỜNG SA





* BÙI VĂN BỒNG

Đây là Tiếng nói Việt Nam…”
Biết mấy tự hào âm thanh ấy
Nắng Trường Sa, gió cát Trường Sa
Nỗi nhớ quê nhà xôn xao sóng vỗ

Loa phóng thanh trên cành phong ba
Đài bán dẫn bên công sự
Bình yên đảo xa chiều lộng gió
Lính trẻ quây quần nghe Tiếng nói Việt Nam...

Ôi! Tiếng của quê hương, Tổ quốc
Bốn ngàn năm vang đến cõi bờ xa
Tiếng gươm giáo thuở nào đi giữ nước
Tiếng gió đồng dào dạt khúc dân ca

Nghe xạc xào bờ lau bãi sậy
Tiếng võng trưa kẽo kẹt dưới tre làng
Tiếng thoi đưa nhịp nhàng xưởng máy
Tiếng trống trường mỗi sáng mặt trời lên

Nghe tha thiết tiếng suối rừng cuộn chảy
Sáo diều ru mướt gió chiều hè
Tiếng ve ngân dìu dặt hàng me
Nhịp hò khoan xóm chài trăng bát ngát…

Nơi Trường Sa đêm ngày sóng hát
Cứ ngân vang Tiếng nói Việt Nam
Thao thức đồng quê mùa gieo hạt
Cành san hô đảo đá bỗng xanh mầm

Thiêng liêng tiếng quê hương, Tổ quốc
Hải đảo thân yêu như ngõ xóm đường làng
Mỗi buổi sáng lại vang lên thân thuộc
“Đây là Tiếng nói Việt Nam…”
BVB









Hãy mừng cho sự đa dạng nhiều hơn lo cho sự chia rẽ


011 pham thi hoai 001Bình luận về phát biểu của ông Phạm Hồng Sơn trên BBC Việt ngữ về vấn đề Hiến pháp, trang tin nổi tiếng mang tên Thông tấn xã Vỉa hè củaAnh Ba Sàm cho rằng nhà hoạt động dân chủ này đã “dùng thứ từ ngữ lập lờ” để “bài bác“, “miệt thị và xuyên tạc bản chất việc làm của những người khởi xướng Kiến nghị 72“, mà bản thân mình – tức ông Phạm Hồng Sơn – thì chỉ đưa ra một “tiên đoán ngon lành cho tương lai Việt Nam” hoặc “một giải pháp cụ thể duy nhất nghe như mơ” bằng cách “khuyên khéo hàng triệu người bỏ Đảng” chứ “chẳng đưa ra được một phương cách gì cho người dân Việt Nam để cải thiện tình hình”. Trang tin này cũng nhận định rằng ông Phạm Hồng Sơn “diễn giải méo mó tình hình thực tế, trích dẫn què cụt“, “ngụy biện khi thổi phồng thực tế“, “loanh quanh gây lóa mắt người đọc bằng đôi ba kiến thức vặt ‘Đông Tây kim cổ’ làm lạc hướng chủ đề“, “ảo tưởng“, đồng thời xác định ông như một người “giả bộ cấp tiến” để phân biệt với “một con người cấp tiến thực sự” và nêu ra nghi vấn “để có ngày sẽ đi tới kết luận có hay không một ‘nhà đấu tranh dân chủ cuội“.
Cùng với một số nhận định khác, đặc biệt trong đợt thảo luận về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi này, chẳng hạn về trang Cùng viết Hiến phápvề trang Việt-Studies, hay về cá nhân tôi sau bài “Bao nhiêu ý dân thì đủ“, cũng như sau đề nghị về một “Đặc khu thông tin” và thao tác mẫu cho sản phẩm của một đặc khu như thế, Anh Ba Sàm đã ngày càng làm rõ quan điểm, chỗ đứng, ngôn ngữ và phong cách văn hóa chính trị của mình. Từ đó tôi ngày càng được nhận thấy rằng mình không gần gũi với quan điểm, chỗ đứng, ngôn ngữ và phong cách ấy, dù đánh giá cao cống hiến của trang tin này. Song khác với những lo ngại về sự chia rẽ trong những người thường được coi là cùng chung một mục đích, tôi hoan nghênh việc bày tỏ rõ ràng diện mạo của mình như vậy. Chúng ta đã có một sự đồng thuận bao trùm trên truyền thông lề phải. Không có gì đáng chán và ăn mòn cả tư duy lẫn cảm hứng hơn, nếu lề trái cũng chỉ biểu dương một lòng đồng thuận tràn trề. Chúng ta vẫn giễu cợt rằng 600 tờ báo lề phải chỉ cần một tổng biên tập là đủ, vậy việc lề trái không có chung một tổng chỉ huy như thế là đáng mừng. Chúng ta đã ngấy đến tận cổ chính thống lề phải, song tôi sẽ nói với bạn rằng nếu chẳng may có một chính thống lề trái thì nó cũng rất khó tiêu hóa. Hãy mừng cho sự đa dạng nhiều hơn lo cho sự chia rẽ.
Sau đây là nguyên văn phát biểu trên BBC của ông Phạm Hồng Sơn mà tôi chia sẻ.
© 2013 pro&contra
_________________

‘Góp ý hiến pháp: hơn một sự ngộ nhận’

Đợt góp ý cho sửa đổi Hiến pháp hiện hành ở Việt Nam đang tiến gần tới thời hạn chót mà Quốc hội và chính quyền do Đảng Cộng sản lãnh đạo đặt ra, nhân dịp này, bác sỹ Phạm Hồng Sơn, nhà vận động cho dân chủ và nhân quyền trong nước, dành cho BBC Việt ngữ một cuộc trao đổi.
Mở đầu cuộc phỏng vấn bằng bút đàm gồm hai phần, ông Phạm Hồng Sơn bình luận về lưu ý gì cần tính tới liên quan trước hết quy trình của cuộc sửa đổi Hiến pháp lần này, trong đó đặc biệt cần lấy gì để đảm bảo người dân có thực quyền và chủ quyền để định đoạt việc lập hiến:
BS. Phạm Hồng Sơn: Trước tiên tôi xin nêu ra hai vấn đề có thể đang bị ngộ nhận, nhầm lẫn lớn trong dư luận về việc sửa đổi hiến pháp. Những bàn luận, thông tin hiện nay gây ra một cảm giác rằng hiến pháp có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc xây dựng chế độ dân chủ hay thực hiện, bảo vệ quyền tự do, nhân quyền cho nhân dân và hiến pháp khởi thủy là nhằm xây dựng nhà nước hay là khế ước giữa người dân và kẻ cầm quyền. Nhưng thực sự không hoàn toàn như thế.
Thứ nhất, hiến pháp chỉ là một thiết chế trong nhiều thiết chế của chế độ dân chủ và không có hiến pháp thì không hẳn xã hội sẽ không có (hay thiếu hơn) tự do, dân chủ. Anh Quốc hay Israel không có hiến pháp (đúng hơn là không có bản văn hiến pháp) nhưng đều là những xã hội rất tự do, dân chủ. Hoặc đơn giản hơn nữa, nhìn vào Việt Nam trước năm 1945 dưới thời thuộc địa (cũng không có hiến pháp) thì rõ ràng lúc đó người dân Việt Nam có nhiều quyền tự do cơ bản hơn hiện nay. Thứ hai, nguồn cội của tư tưởng hiến pháp (constitutionalism) không phải là việc xây dựng nhà nước hay là khế ước giữa người dân và kẻ cầm quyền – đó chỉ là sự tiến triển và là hệ quả cụ thể sau này như chúng ta đang thấy – mà nguồn cội của hiến pháp chính là tinh thần thượng tôn pháp luật (rule of law) – tư tưởng có nguồn gốc từ phương Tây từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại và được củng cố mạnh mẽ trong thời Trung cổ châu Âu và tiếp tục trong những thời kỳ sau này- bất kể ai, từ vua tới dân, giáo hoàng cho tới con chiên, đều phải tuân thủ pháp luật – những qui ước chung.
Ngay trong đêm trường Trung cổ, những điển cố về tuyên hứa tuân thủ và thực thi nghiêm ngặt pháp luật của các ông vua bạo chúa như Pepin (714-768), Charlemagne (742-814), Charles the Bold (1433-1477) vẫn còn được sử sách ghi rõ. Hay đơn giản là nhìn vào vụ án Tống Văn Sơ tại Hong Kong năm 1931 ta cũng thấy nguyên tắc ‘rule of law’ được tuân thủ nghiêm ngặt. Dẫu cho pháp luật những thời đó còn nhiều bất công và man rợ nhưng tập quán giữ lời và tôn trọng pháp luật là một di sản vô cùng lớn đã làm nền cho văn minh nhân loại hôm nay.
Chính trên thiết chế ‘rule of law’ đó của phương Tây, hiến pháp với ý nghĩa là một bộ luật chung cho một cộng đồng-quốc gia-dân tộc mới được phát triển. Nhìn lại những bản văn có tính hiến pháp quan trọng của nhân loại như Magna Carta 1215, Fundamental Orders of Connecticut 1638, Hiến pháp Mỹ 1787 hay Hiến pháp Meiji Nhật Bản 1889, dù khác nhau về không gian và thời gian và còn nhiều khiếm khuyết nhưng tất cả đều có chung một đặc tính: những người chủ xướng thảo ra và hạ bút ký đều tuân thủ rule of law và, do đó, tất cả cùng làm thành nền tảng văn minh, tự do cho các thế hệ kế tiếp ở những nơi đó. Nghĩa là về nguồn gốc chỉ khi một nhóm người đã cùng có ý thức tuân thủ nghiêm ngặt những cam kết, nguyên tắc chung (luật) thì mới có hiến pháp và chỉ khi đó hiến pháp mới có ý nghĩa.

‘Vô ích, ảo tưởng’

Nhìn lại cái gốc của hiến pháp Việt Nam hiện nay là gì? Đó là vụ “Ôn Như Hầu”, là bà Nguyễn Thị Năm-Cát Thành Long (ân nhân của Hồ Chí Minh) bị bắn chết tươi, là mấy chục năm trên Cổng Trời của Nguyễn Hữu Đang (người dựng lễ đài khai sinh ra Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), là “rút phép thông công” của Nguyễn Mạnh Tường (tư vấn pháp luật cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), là chín năm tù không án của Vũ Thư Hiên – con trai ân nhân và thư ký riêng của Hồ Chí Minh – lãnh tụ, tác giả chính của Hiến pháp 1946, là bảo người ta đi học tập vài tuần, vài tháng nhưng rồi đưa người ta đi tù mút mùa hàng chục năm hoặc mãi mãi, vân vân và vân vân, vô vàn những đau thương, tủi hờn khác còn ghê gớm, xót xa hơn nữa. Và nếu chỉ tính trong vài tháng trở lại đây, trong đợt “cải cách hiến pháp”, có ai đếm được hết những vụ bất chấp luật pháp, bách hại, sỉ nhục con người tại Việt Nam do chính người cầm quyền thực hiện (?).
Với cái nền “rule of law”, cả từ đáy cho tới hiện tại, như thế thì sao có thể nói đến hiến pháp hay sửa hiến pháp được? Do đó, theo tôi, một cách thẳng thắn, nếu bàn đến xây dựng hay ủng hộ việc cải cách hiến pháp với chính quyền Việt Nam hiện tại là một việc làm kỳ cục, gần như vô ích hoặc hết sức ảo tưởng.
Nhưng bình tĩnh lại, chúng ta cũng cần thấy thế này: chính sự phát triển lâu dài hàng thế kỷ sau đó của hiến pháp trên thế giới và đặc biệt là việc các lãnh đạo độc tài thường xuyên lấy hiến pháp làm mặt tiền (façade) cho cách cầm quyền độc đoán, bất chấp pháp luật (phi thượng tôn pháp luật – rule by law) của họ đã làm cho chúng ta lãng quên mất cái gốc quan trọng của hiến pháp (thực sự) – là rule of law – và làm cho chúng ta rối mù trong cái vòng xoắn luẩn quẩn: Độc tài thời dân chủ – Hiến pháp mặt tiền – Dân chủ giả hiệu – Dân chúng bối rối, mất tự do – Độc tài thời dân chủ.
Dân chúng bối rối vì phản đối thì sẽ bị qui ngay là chống lại pháp luật, chống lại văn minh còn đồng ý, tán thành thì hậu quả như chúng ta đã thấy: một nhà nước vẫn hoàn toàn độc tài còn nhân dân thì bị kìm kẹp, hắt hủi tệ hơn với những hệ thống pháp luật đồ sộ, luôn được cải cách và cũng không kém đẹp đẽ.
Trong khi đó, cả thực tế như ở Việt Nam và các kết luận của giới học giả chính trị, như Hayek hay Dicey, đã chứng minh rõ là ‘rule of law’ phụ thuộc chủ yếu vào thái độ, thiên hướng đạo đức và các hành động chính trị hơn là phụ thuộc vào ngôn từ của các văn bản luật.
Hơn nữa chúng ta cũng không nên kỳ vọng hiến pháp sẽ giải quyết được mọi thứ vì không thể có một văn bản nào dù thành thực, chi tiết đến mấy có thể qui định và đưa ra được các giải pháp luôn đúng cho mọi vấn đề cá nhân và xã hội. Ví dụ, tôi tin rằng ngay cả bây giờ nếu không có hiến pháp nhưng một nhà cầm quyền lương thiện sẽ không bao giờ cấm cản, sách nhiễu, sỉ nhục, vu cho những người xuống đường phản đối quân xâm lược Trung Quốc là gây rối hay không thể nào lại hắt hủi vị tướng già gần 100 tuổi muốn đặt vòng hoa tưởng niệm các binh sĩ đã bỏ mình vì quân Trung Quốc.

‘Không nên khẩn cầu’

BBC: Vậy theo ông nhóm 72 người (đầu tiên) mới đây kiến nghị về cải cách hiến pháp do ĐCSVN đề ra có những ý nghĩa gì?
Đó là việc có thể tăng cường hiểu biết, nhận thức về pháp luật và tập dượt trong việc tập hợp dân chúng. Nhưng nếu chỉ nhằm hai mục đích đó thôi thì những nhân sĩ có uy tín lớn vào hạng nhất như thế lẽ ra không nên khẩn cầu hay kiến nghị cho Quốc hội – cơ quan đã tỏ rõ là vô trách nhiệm với tất cả các vấn đề hệ trọng nhất của đất nước, đã bị thế giới dân chủ gọi là con dấu cao su của ĐCSVN. Nếu các vị đó không cần phải đề đạt, khẩn cầu ai, ngoài dân chúng, tôi tin rằng các vị đó vẫn khởi động được một phong trào nâng cao nhận thức của xã hội về hiến pháp, pháp luật, vừa tập được tính chủ động cho người dân và vừa tránh được mọi sự lợi dụng (chắc chắn đã hoặc sẽ có) của chính quyền và loại hoàn toàn được hiệu ứng (vô tình hay cố ý) tạo thêm tính chính đáng cho một thủ đoạn chính trị lừa dối. Và còn tránh được nhiều hệ quả có thể xấu hơn nữa.
Nhưng nói đến hiến pháp, pháp luật mà không nhấn mạnh, đòi hỏi rule of law, không tố cáo, phản bác sự chà đạp ‘rule of law’, bất chấp hiến pháp thì cũng chả khác mấy với các tuyên truyền của ĐCSVN từ xưa tới nay. Hơn nữa, chúng ta cần hết sức lưu ý rằng ĐCSVN đã luôn chứng tỏ là ông “trùm” trong việc thao túng, lèo lái dư luận, lôi kéo, thao túng quần chúng, kể cả những khi họ chưa nắm chắc quyền hoặc lâm khủng hoảng. Chính đợt “cải cách hiến pháp” này cũng là một ví dụ chứng tỏ ĐCSVN vẫn thừa khả năng áp đặt “lối chơi”. Vấn đề hệ trọng này tôi xin đề cập thêm vào một dịp khác.
BBC:Thế còn ý kiến cho rằng “Kiến nghị 72” có tác dụng ‘hỗ trợ một phe đang muốn đa nguyên trong Đảng’, thì ông nghĩ sao?
Vâng, cũng có thể có manh nha của một sự biến chuyển thành đa đảng. Các phe phái trong ĐCSVN gần như đang hình thành ngày càng rõ và họ còn đã chuẩn bị xong những bước đầu tiên cho sự truyền ngôi cho thế hệ con cháu của họ. Và chính cái nguy hiểm nằm ở chỗ đó vì nếu như thế thì rất có thể Việt Nam sẽ lặp lại tình trạng nước Nga thời hậu Yeltsin như hiện nay và chắc chắn sẽ tệ hơn nước Nga vì Việt Nam là bạn vàng của Anh cả Đỏ phương Bắc. Lúc đó các phe phái độc tài sẽ thay nhau nắm quyền sắt đá, sẽ có truyền thông tư nhân hốt bạc là cánh hẩu của giới chính trị nói tiếng Anh làu làu, lái Rolls-Royce điệu nghệ, còn tự do của nhân dân và chủ quyền quốc gia chắc sẽ được đếm xỉa nhiều ít là phụ thuộc vào sự lên xuống cao thấp của những ly rượu Mao Đài.
Một đất nước thiếu hay yếu về xã hội dân sự và người dân chưa có nhiều thao luyện chính trị luôn là mảnh đất màu mỡ cho độc tài độc đảng hay vài đảng lũng đoạn.
BBC: Ông nghĩ sao về con số được cho là ‘đã có gần bảy nghìn người’, tính tới thời điểm này, ký tên vào “Kiến nghị 72”?
Tôi nghĩ đó là một kết quả rất đáng khích lệ không chỉ cho những người chủ xướng mà còn cho cả những người muốn dân Việt Nam tích cực hơn với các vấn đề chung của xã hội. Nhưng số lượng không phải là yếu tố duy nhất hay yếu tố quyết định cho chất lượng hay xác định tính đúng/sai của một xu hướng/phong trào chính trị nhất là khi quyền lực độc đoán vẫn giữ thế thượng phong, bao trùm trong xã hội. Còn về phân tích thống kê thì những đặc điểm như phân bổ vùng miền, giới, nghề nghiệp, tôn giáo và nhất là trình độ chính trị của người ký và cách thức tập hợp, lấy chữ ký như thế nào cũng là yếu tố không thể bỏ qua khi xem xét tính chất của sự ủng hộ. Đó là những điều tôi chưa biết rõ.
Nhưng chúng ta rất cần lưu ý các cuộc bầu cử do ĐCSVN tổ chức từ năm 1945 đến nay và các cuộc bầu cử ở nước Nga thời hậu cộng sản vẫn là những bài học sâu sắc về số lượng cho chúng ta – những người muốn có dân chủ, tự do đích thực.
Sửa hiến pháp-phương thuốc của độc tài’
Nhà vận động cho dân chủ, nhân quyền và cải tổ chính trị ở trong nước, Bác sỹ Phạm Hồng Sơn, cho rằng sửa hiến pháp là một thủ thuật mà ông gọi là “phương thức kinh điển” của các thể chế và các nhà độc tài khi họ muốn “duy trì,” “cố thủ” quyền lực.
Ông cũng cho rằng người dân, kể cả giới trí thức, giới bất đồng chính kiến trong nước, muốn đấu tranh để đạt được dân chủ, nhân quyền thực sự, cũng như giành lại quyền lực đích thực của nhân dân, cần có sự thay đổi ‘chủ động’ và ‘căn bản’ từ tư duy tới chiến lược, chiến thuật trước đảng cộng sản.
Mở đầu phần II cuộc phỏng vấnbằng bút đàm với BBC, bác sỹ Sơn bình luận về một luồng ý kiến cho rằng có thể “có ai đó đang lèo lái và thi triển ý đồ” phía sau lần đưa ra sửa đổi Hiến pháp hiện tại, theo hướng có thể “dùng” lần tu chỉnh như một dịp để “kéo dài thời gian, tạo lợi thế chính trị cho mình” hay thậm chí “đánh lạc hướng xã hội và dư luận.”
BS. Phạm Hồng Sơn:Đặt vấn đề như vậy đã chính là câu trả lời nếu bỏ đi các dấu hỏi, bớt đi dăm chữ và thêm vào chữ “Đảng cộng sản Việt Nam” (ĐCSVN). “Sửa hiến pháp” luôn là một phương thuốc kinh điển của mọi kẻ độc tài trong thời dân chủ mỗi khi chúng muốn tiếm quyền, củng cố lại quyền lực hay vượt thoát khủng hoảng. Chỉ cần xem qua dư luận vài tháng nay thì thấy phương thuốc đó còn khá hiệu nghiệm, gần như tất cả các vấn đề nghiêm trọng khác của đất nước đã bị mờ hoặc biến hẳn trên truyền thông, cả của Đảng lẫn của dân, trước các núi thông tin về hiến pháp – một bản văn chưa bao giờ được ĐCSVN tôn trọng.
Tuy nhiên, nếu chỉ nói như thế thì dễ gây hiểu lầm hoặc làm tổn thương những người thật lòng muốn tận dụng cơ hội này để thúc đẩy tiến bộ thực sự. Nhưng cá nhân tôi rất lo lắng cho những người có thiện ý tiến bộ thực sự đó vì đảng hoàn toàn chủ động trong việc này và đảng có rất nhiều cách thức, nguồn lực để tận dụng ngược trở lại như lèo lái, thậm chí mua chuộc. Những thủ đoạn nhằm tận dụng trở lại đó của ĐCSVN thì chính bản thân tôi và nhiều thân hữu của tôi đã phải trải nghiệm.

Góp ý nào ấn tượng?’

BBC: Trong số các ý kiến đóng góp về đợt sửa Hiến pháp lần này, ông thấy có ý kiến nào, của ai, đáng chú ý vì tính thực tế, thực chất của nó?
Ngoài giới đấu tranh ly khai khỏi ĐCSVN, tôi thấy ấn tượng với ý kiến của hai người là ông Nguyễn Trung, đảng viên cộng sản, cựu đại sứ Việt Nam tại Thái Lan và ông Nguyễn Huy Canh một đảng viên cộng sản. Ý kiến ấn tượng của ông Nguyễn Trung đối với tôi là ông đã đi đến nhận định rằng ĐCSVN đang “quyết cố thủ” tính “độc quyền toàn trị đối với quốc gia” và ông nêu quan điểm rõ rằng nếu hiến pháp chỉ sửa đổi sơ sơ như dự thảo thì nên dừng việc cải cách hiến pháp lại. Còn ý kiến gây ấn tượng cho tôi từ ông Nguyễn Huy Canh là ông khẳng định các hoạt động chính trị “không thể lý giải theo cách của các khoa học tự nhiên được.” Nhưng đáng tiếc tôi lại không đồng ý với các giải pháp đề nghị của hai người này. Ông Nguyễn Trung rất trông chờ vào chữ “tâm” của các lãnh đạo đảng, còn ông Nguyễn Huy Canh thì kỳ vọng vào việc luật hóa Điều 4. Sự vô ích của luật hóa Điều 4 (nếu có thể được luật hóa) đã được tôi chứng minh ở phần trên. Còn việc trông chờ vào thiện ý hay tâm nguyện của lãnh đạo lại là một tinh thần thụ động, ảo tưởng hết sức vô lý ở một người đã tự thừa nhận đảng của mình đang “cố thủ” sự độc tài.
Còn về tổng thể, tôi thấy đa phần ý kiến trong dư luận hiện nay vẫn là mang tính khuyến dụ đảng bỏ Điều 4 hay luật hóa Điều 4 với lý lẽ là nhằm để ĐCSVN trường tồn hay chính là giúp để đảng trong sạch hơn, có uy tín hay lấy lại uy tín với nhân dân hoặc bỏ Điều 4 là theo đúng tư tưởng tiến bộ của Hồ Chí Minh. Theo tôi kiểu khuyến dụ đó là không đúng, nhầm lẫn (hoặc thiếu thành thật) về bản chất hiện tượng và không chân thật nhìn từ vị thế của ĐCSVN. Vì nếu bỏ Điều 4 không thôi thì không hẳn đã tương đương với xã hội có đa đảng, có dân chủ, tự do hay ĐCSVN chấp nhận những điều đó. Chúng ta nên nhớ lại trước khi có Điều 4 Hiến pháp năm 1980 thì đảng vẫn hoàn toàn “lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện”. Còn về Hồ Chí Minh, tôi xin khẳng định lại một lần nữa rằng chính thực tế cầm quyền và những phát biểu của Hồ Chí Minh, đã được ghi lại trên các văn bản của ĐCSVN, đã minh chứng rõ rằng Hồ Chí Minh là con người mang tư tưởng độc tài quyết liệt nhưng khéo léo, xảo quyệt.
Còn việc đảng sẽ thấy người khuyến dụ kiểu đó không chân thật là vì ngay một chính trị gia thiếu kinh nghiệm nhất cũng phải hiểu rằng khi bắt đầu phải cạnh tranh với người khác cũng là bắt đầu phải từ bỏ việc kiểm soát tuyệt đối quyền lực. Mà đảng thì lại không phải là một tổ chức chính trị thiếu kinh nghiệm và chính đảng đã nhiều lần tuyên bố dứt khoát rằng không chấp nhận đối lập chứ chưa nói đến việc cạnh tranh. Vì vậy kiểu khuyến dụ đó chỉ có thể mang lại sự an toàn, tính ít đối đầu cho người nói chứ hoàn toàn không có tác dụng để đảng tin cậy vào người nói, sẽ không làm đảng tự từ bỏ độc quyền quyền lực. Mà khi ĐCSVN đã nghi ngờ, vì thấy vô lý, thì đảng sẽ càng phòng thủ và càng tìm ra nhiều cách để đối phó, chống chế, trấn áp cái nguy cơ mà thâm tâm đảng cảm thấy có thể bị giăng bẫy (vô tình hay cố ý) bởi chính những người thân cận với mình. Như vậy, lối khuyến dụ kể trên còn gây tổn hại cho lòng tin, vốn đã yếu, giữa người Việt với nhau.

‘Sự chủ động của dân’

BBC: Theo ông, cả chính quyền, người dân và các giới cần nỗ lực theo hướng nào, nguyên tắc nào và cách thức ra sao để đảm bảo sớm có nhân quyền, tự do, dân chủ thực sự ở Việt Nam, không chỉ giới hạn ở việc sửa Hiến pháp lần này?
Về chính quyền, thú thật tôi không có kỳ vọng gì vào việc góp ý để họ thay đổi hay lắng nghe. Và nếu họ trở nên biết lắng nghe thì những gì mọi người đã nói trong khoảng 5 năm qua thôi cũng đã quá đủ để họ biết cần phải làm gì để đất nước thoát khỏi tình trạng lâm nguy hiện nay. Vì vậy, ở đây tôi sẽ chỉ đề cập đến sự chủ động của nhân dân – những người đang bị kìm kẹp.
Theo tôi trước hết nhân dân cần nhận thức rằng việc xây dựng dân chủ, giành và thực hiện các quyền tự do hay nhân quyền là một công việc phải luôn chủ động và là một quá trình lâu dài, liên tục, phải trải qua nhiều giai đoạn. Đó là công việc của chính mỗi người dân – những người đang bị trị – chứ không phải của bất cứ ai hay bất cứ quốc gia, tổ chức quốc tế nào, dù họ là người tài giỏi hay giàu mạnh, tốt bụng đến mấy. Với tư cách là công dân, ta không nên trông mong ở chính quyền, kể cả chính quyền dân chủ. Trong công cuộc tranh đấu đó, mỗi quốc gia gần như đều có những cách thức riêng để tiến tới tự do nhưng, theo tôi, có những nguyên tắc và những vấn đề chung không thể né tránh.
BBC: Ông có thể cho biết rõ thêm những điểm chung đó?
Chẳng hạn như, nguyên tắc trả giá, hy sinh. Mọi tiến bộ của cá nhân hay xã hội đều buộc phải đi kèm với một cái giá nào đó. Dĩ nhiên hiện nay không ai lại đi cổ vũ và ủng hộ cho đấu tranh vũ trang, bạo động nhưng điều đó không có nghĩa là những cuộc đấu tranh bất bạo động không phải hy sinh, mất mát. Nhưng cái giá đó đắt hay rẻ, lớn hay nhỏ lại tùy thuộc quan niệm trong sự so sánh giữa các cặp giá trị như nhân phẩm-thân thể, tự do-nô lệ, lợi ích gia đình – tiến bộ xã hội hay quyền lợi đảng phái-chủ quyền dân tộc…
Hoặc một đặc điểm chung khác là chúng ta cần phải học và thực hành những đặc tính văn hóa dân chủ. Ví như nếu chúng ta muốn có tam quyền phân lập, muốn có đối trọng về quyền lực thì chúng ta không thể không thấy lợi ích từ sự hiện diện của những tổ chức, ý kiến khác biệt với mình. Nếu nhân dân muốn có một chính quyền biết đối thoại, lắng nghe dân chúng thì chúng ta không thể giữ thái độ im lặng, bất chấp hoặc xúc xiểm, trấn áp những phê bình, cảnh báo của người khác. Hay các đảng phái chính trị là cần thiết trong chế độ dân chủ nhằm vận động, tập hợp dân chúng trong việc cạnh tranh tìm ra lãnh đạo tối ưu và phòng chống độc tài nhưng chúng ta không nên nhầm cạnh tranh chính trị với đầu óc bè phái, cục bộ, quên mất cái mục đích tối thượng của cạnh tranh chính trị là giúp cho chân lý, điều hay lẽ phải không bị kẻ cầm quyền vùi dập chứ không phải là việc trung thành mãi mãi hay cứ cố bảo vệ cho người cùng nhóm, cùng đảng với mình bất chấp phải, trái. Nếu những nét văn hóa dân chủ cơ bản như thế chưa được thấm nhuần và trở thành phổ biến thì rất khó có thể đạt được một xã hội dân chủ, văn minh.

‘Cần thẳng thắn hơn’

Một điểm quan trọng nữa là nhân dân cần thay đổi cách tiếp cận trong vận động, đấu tranh. Chúng ta cần thẳng thắn hơn với ĐCSVN và thành thật hơn với bản thân mình. Chúng ta sẽ không thể thuyết phục được người khác chấp nhận chân lý nếu chính chúng ta lại né tránh hay nói ngược với những sự thật hiển nhiên hoặc lại đặt chân lý xuống dưới an toàn. Nhân dân sẽ không thể đòi hỏi người khác phải dũng cảm rũ bỏ sự khống chế, mua chuộc của Trung Quốc khi chúng ta lại luôn cần một bình phong để che chắn cho chính kiến của mình. Làm sao có thể khiến độc tài đương quyền thức tỉnh “trở về với nhân dân” khi chúng ta cứ thản nhiên dùng hình ảnh, trước tác của cố lãnh tụ độc tài, cựu tướng lĩnh phi dân chủ vẫn một lòng theo Chủ nghĩa Marx-Lenin làm phông cho những kêu gọi, vận động dân chủ.
Chúng ta sẽ không thể có một xã hội tôn trọng pháp luật (rule of law) nếu chúng ta vẫn giữ lối thuyết khách “làm như thế là có lợi cho Đảng, là giúp Đảng tránh sụp đổ chứ không phải lật đổ hay chống Đảng” thay cho việc minh định đơn giản rằng “cần phải làm thế vì pháp luật, vì công bằng”. Chúng ta cũng không thể đòi hỏi người khác phải khí phách trước kẻ xâm lược khi chúng ta lại thế thủ trước họ bằng sự thừa nhận rất mù mờ “có thể có những kẻ lợi dụng để xuyên tạc nhưng không phải ai có ý kiến khác cũng đều là xuyên tạc, phản động.” Hoặc làm sao chúng ta có thể đòi hỏi lãnh đạo ĐCSVN phải biết đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của họ khi của cải của chúng ta đã đủ sống cho mấy đời con cháu mà chúng ta vẫn lo bị đảng cắt mất sổ hưu.
Còn về cụ thể, tôi nghĩ, vì mọi nguồn lực và thời gian của chúng ta đều có hạn, chúng ta nên gắng tập trung vào những điều vừa thiết thực lại vừa có tính nền tảng (cả về hàn lâm lẫn thực tiễn) cho một xã hội dân chủ tự do trong tương lai như: quyền ra báo tư nhân, xuất bản tư nhân: Đòi hỏi phải cấp phép hay chính thức thừa nhận (hợp pháp hóa) các trang mạng như Anh Ba Sàm, Bauxite VN, Quê Choa,… các tờ báo “chui” như Tự do Ngôn luận, Tổ Quốc,… nhà xuất bản Giấy vụn,…; quyền tự do đi lại: Không được đưa người đến chặn ở nhà hay lần mò, theo rõi, đe dọa nhằm ngăn chặn sự di chuyển của người dân…; quyền được xuất nhập cảnh tự do: Không được lén lút đưa ra những đòi hỏi, áp lực hay cam kết này nọ rồi mới cấp hộ chiếu hay cho thông quan xuất nhập đối với mọi công dân; quyền tham dự các phiên tòa công khai: Đã là công khai thì mọi người dân phải được bình đẳng vào dự, nhất là người thân của bị cáo, báo chí; quyền gặp gỡ, nhóm họp hay xuống đường tuần hành một cách ôn hòa mà không cần phải xin phép…
Hoặc các vận động rất thiết thực như “Tuyên bố kêu gọi thực thi quyền con người và bãi bỏ Điều 88”, theo tôi, đang đi khá chủ động và đúng hướng nhưng đáng tiếc đến nay lại bị “cải cách hiến pháp” làm chìm đi mất. Những quyền như thế, phần lớn đều đã được qui định trong bản hiến pháp hiện hành, nếu được cải thiện dù ít hay nhiều cũng sẽ là cái thực, cái tốt ngay cho chúng ta hơn là nếu đạt được một bản hiến pháp tuyệt vời đến mấy thì nó vẫn mới chỉ là giấy.
Và có một cách thức nữa tôi muốn nêu ra ở đây vì nếu thực hiện được thì sẽ tạo ra một uy lực chuyển đổi về phía tiến bộ vô cùng lớn mà lại rất ôn hòa, nhẹ nhàng. Đó là quyền từ giã những chiếc thẻ màu đỏ một cách công khai của vài triệu người. Nhưng cho tới nay, ngoài vài người rất đáng kính đã thực hiện, rất tiếc chưa có nhiều người đáng kính khác tỏ ra có dấu hiệu sẽ thực hiện, kể cả những người đã đi tới nhận định cái tổ chức phát ra những chiếc thẻ đỏ đó đã “hư hỏng, suy đồi” hay nó đang “cố thủ độc quyền toàn trị đối với quốc gia.”
Điều cuối cùng, theo tôi, khi xem lại lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến nay với bao mất mát thương đau mà người Việt Nam chỉ được hưởng một chế độ chính trị tàn bạo, ngoan cố thì giới tinh hoa hôm nay cần phải mạnh dạn hơn trong việc khẳng định tư cách độc lập. Giới tinh hoa độc lập thì dân mới độc lập. Dân độc lập thì nước mới độc lập, tự do.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét