Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2012

Chiến Dịch C 81 - 2


Biên Giới Tây Nam (tt) 2

Tôi được điều xuống đại đội 3 trực máy vì một lý do rất vớ vẩn. Thằng liên lạc mới (không nhớ tên) của anh Đạt đại trưởng nhặt được ở đâu đó quả đạn cối 81 lép mang về định kẹp thêm lựu đạn đánh cá. Anh Đạt đang nằm võng trông thấy hét nó mang đi vứt ngay. Thằng ngu đấy giật mình ném đi luôn thật. Thế là :“Uỳnh!”. Đạn thì nặng, tầm ném gần. Đại trưởng và thông tin bị thương, liên lạc hy sinh. Đang thiếu người, anh Thưởng, anh Sơn tiểu đoàn tức lộn tiết nhưng đành động viên anh Thoan xuống nhận nhiệm vụ đại đội phó. Tôi từ đại đội 1 sang đi với đại 3. Nói thêm một chút về anh Thoan, người Thanh Hoá, lính 74 đang mang hàm chuẩn uý. Sau những trận đánh ác liệt ở cầu Prasaut, anh ấy không nhận nhiệm vụ nữa. Tiểu đoàn rút lên kỷ luật Đảng nhưng vẫn để đi kèm tiểu đoàn bộ. Lính tráng nói kháy gọi là “tham mưu tụt tạt” hay là “thành phần đọc báo” anh ấy cũng mặc kệ. Lần này không nhận nhiệm vụ không được nên đành xuống đại đội 3. Một lần trong đêm, tôi gọi về tiểu đoàn kiểm tra đường dây như thường lệ. Thấy tay quay máy nhẹ và không có tín hiệu biết ngay là dây đã đứt. Tôi gọi thằng Phụng 2W(người Huế- hy sinh năm 1982) lên máy rồi trở dậy, khoác súng đi nối dây. Lại còn cẩn thận mang thêm cả bao xe. Xin anh Thoan thằng liên lạc đi cùng nhưng anh ấy không cho.Tôi bảo thằng Phụng gọi về tiểu đoàn thông báo các chốt gác để khỏi bắn nhầm rồi lên đường. Chỉ huy sở tiểu đoàn cách đại 3 khoảng 1,5 km. Đêm tối như mực. Tay tôi cứ lần theo dây mà đi thật chậm tìm chỗ đứt. Thỉnh thoảng lại co kéo dây thật nhẹ nhàng để kiểm tra. Nếu thấy dây điện thoại co về dễ dàng thì hãy cẩn thận, vì đã đến gần chỗ phải nối. Ai biết được dây đứt vì lý do gì? Bọn Miên thường chơi trò cắt dây điện thoại rồi nằm phục tại vị trí cắt hoặc gài mìn. Điều này anh Hoạch, anh Tuấn “còi” đã dạy chúng tôi từ hồi còn nằm chốt biên giới. Lần mò dần nhưng không thấy dây đứt chỗ nào. Đã nhìn thấy nóc chùa tiểu đoàn mờ mờ trên nền trời sao. Vọng gác thông tin đây rồi. Tôi cúi người thật thấp rồi giặng hắng: “ Thông tin đây! Đừng bắn!”. Anh Hoạch ra đón. Tôi thông báo tình hình. Anh Hoạch nhận định có thể dây bị đứt ngầm rồi giục tôi về làm cọc âm. Khi ta nối một dây vào cọc âm thì máy điện thoại vẫn có thể liên lạc được. Tất nhiên chất lượng liên lạc có kém hơn. Về đến đại đội, tôi lôi que thông nòng AK ra lấy xẻng đóng xuống đất làm cọc âm. Nhưng vẫn không liên lạc được vì đất mùa khô độ dẫn truyền điện tích rất kém. Thế là tôi mang ra ngay cây dừa, đóng vào thân cây. Tiếng chan chát vang lên trong đêm làm anh Thoan cáu :” Thôi ngay đi! Địch nó bắn vào bây giờ!”. Tôi cũng phát khùng. Phần thì mệt, phần thì tức chuyện không cho người đi cùng lúc nãy liền vặc lại :” Đây là nhiệm vụ của tôi! Tôi không thể không nhận!”. “Ah ! Thằng cà chớn...!” Anh ấy chạm nọc văng vung xí mẹt, đòi đuổi tôi về tiểu đoàn ngay. Đến lúc này thì tôi cũng cóc cần gì nữa. Liên lạc đã thông, tôi quay máy thẳng về báo cáo với trung đội. Sau vụ đó vài hôm, thấy căng thẳng, anh Nhương (lúc này đã là trung đội phó) lại chuyển tôi sang đại đội 1.    Cuối tháng 2 lại có lệnh hành quân. Đơn vị rời Bongbang sang Kampong Ch’nang bằng tàu hải quân. Đến thị xã, tôi nhận được một lúc 14 lá thư. Thư gia đình, thư các bạn cùng lớp phổ thông…Đây là lần đầu tiên những lá thư đến với tôi. Chúi vào một góc kín đọc chậm từng lá. Nước mắt lặng lẽ chảy… Làm thế nào được, năm đó tôi mới 19 tuổi đời. Không có nhiều thời gian cho những xúc động riêng tư, tiểu đoàn lên xe theo lộ 27 tiến về ga Rômeas. Đây là con lộ đất dài khoảng 30 km. Phía trong khu vực ga, địch đang bao vây tiểu đoàn 6 và một đại đội của trung đoàn pháo 42 (105mm). Đêm đêm nó đánh vào tận chân pháo. Pháo thủ phải đánh nhau như bộ binh. Nhiều lần phải hạ nòng xuống bắn thẳng. Thậm chí các đơn vị địch còn dùng pháo hiệu bắt liên lạc với nhau để hiệp đồng. Bọn này thuộc quân khu Tây nam, đang bị ta dồn vào các thung lũng rừng núi kẹp giữa Kampong Ch”nang và Kampong Speu – thánh địa cuối cùng- nên điên cuồng chống trả. Đường đất đỏ mùa khô bụi mù mịt, nghẹt hết cả mũi. Xe chạy được nửa đường có lệnh xuống xe hành quân bộ theo đội hình chiến đấu. Đại đội 2 đi đầu. Đại 3 sườn bên phải. Đại 4, tiểu đoàn bộ đi giữa cùng xe tải. Đại 1 đi chặn hậu. Đại 2 bắt đầu chạm địch. Chúng nó không đối đầu, dạt sang bên phải. Cứ thấy tiếng xe nổ máy rì rì ở đâu là bắn đạn nhọn về phía đó nhưng cũng không dám dàn mặt. Mặc kệ! Xe cứ chạy, tiểu đoàn cứ tiến. Phát đạn duy nhất bắn về phía địch là quả M.72 của một tham mưu trung đoàn đi cùng đội hình đơn vị. Bố này mang nặng muốn quăng bớt đi cho nhẹ. Cách ga Rômeas 1 km, đến cầu cháy thì gặp trung đội chốt đường của đại 11 tiểu đoàn 6. Tôi gặp thằng Hiệp là thằng bạn cùng lớp, cùng trường Phan Đình Phùng rồi đi lính. Nó vẫn mặc bộ quân phục màu vàng đất thời huấn luyện ở Phủ Lý. Trên tay là khẩu B.41 “ống loe”. Cùng lớp 10E của tôi năm ấy ra trận có thằng Tuấn Anh, thằng Bình cáo, thằng Thọ. Mỗi lá thư của chúng tôi gửi về đều là thư chung cho ngần ấy gia đình. Khỏi phải nói chúng tôi đã mừng rỡ như thế nào. May mà vẫn chưa có đứa nào bị thương hoặc hy sinh. Thằng Hiệp kể rằng trung đội chốt đường của nó đã nằm đây 4 ngày trời. Rình rập tỉa nhau với địch quanh cái cầu cháy này. Bọn nó muốn chiếm và phá huỷ cầu để ngăn cơ giới ta nhưng không được. Chuyện ngắn vài câu tôi lại mải mốt bước theo đơn vị. Chiều tối tiểu đoàn 4 nghỉ luôn ở vị trí đại đội pháo 105mm. Lính pháo mấy ngày lạnh lưng hở sườn lo sốt vó chống địch, bây giờ thấy chúng tôi đến, lại được tiếp thêm đạn pháo thì sướng quá. Còn bao nhiêu trà lá thuốc thang mang ra chiêu đãi mệt nghỉ. Thằng Bình cáo nghe tin tiểu đoàn 4 đến tăng viện, mò sang chỗ tôi chơi. Hai thằng trải nilon nằm trên mặt bờ ruộng nói chuyện. Được mươi phút thì địch lại đánh rát vào đại đội 11. Tiếng súng rộ lên. Nó trở dậy chạy về đơn vị. Rừng mùa khô đang cháy dữ dội. Lửa hắt lên trời những vầng sáng hồng rực, nhìn rõ cả từng cái cát tút rơi trên đường. Sáng hôm sau, tiểu đoàn 4 nằm ở sân ga đợi lệnh. Ga Rômeas, cũng như mọi nhà ga nhỏ trên trái đất này, với đủ đường ke, nhà chờ và tháp nước…Con đường sắt heo hút chạy giữa rừng dầu thưa, mùa khô lá rụng, không biết về đâu. Nhà ga một tầng, lợp ngói đỏ. Tường lỗ chỗ vết đạn to nhỏ. Phía trong nhà cũng cửa tò vò, ghi sê bán vé. Những vật thể kiến trúc còn lại như nhắc nhở về một thời yên bình từng hiện hữu nơi đây. Ngắm nhìn chúng, tôi thấy buồn buồn…Trên sân ga, hàng cây keo cổ thụ toả bóng râm mát. Mỗi khi gió mạnh thổi qua, những quả keo chín loăn xoăn quay vòng rụng xuống. Hướng tây ga Rômeass là một trái núi nhỏ, thấp, cách ga khoảng 3 km. Trung đoàn 1 đang đánh địch ở đó. Trên núi, nó có một khẩu pháo cao xạ 37mm hai nòng hạ góc tà âm bắn điên cuồng hòng cản bước sư đoàn. Cứ “Bốp bốp…khục khục” suốt. Trận địa pháo 105mm của trung đoàn 42, được chúng tôi hộ tống xe tiếp tế hôm qua, bắt đầu bắn không tiếc đạn lên núi.Tại giao lộ đường sắt và đường 27, cán bộ quân lực và chính sách trung đoàn 1 đang vạch võng thương binh,tử sỹ nhận người. Tiểu đoàn 4 theo đường sắt lên hướng tây bắc 1.5 km rồi tạt xuống lòng một con suối cạn chuẩn bị vu hồi. Hai bên bờ suối, le mọc dày rịt. Thân nọ đan thân kia như một hàng rào không thể vượt qua. Toàn “cồ” túm được một con tê tê (con trút) ngay trong lòng suối định mang theo làm thịt nhưng ai cũng bảo vứt đi. Đi đánh nhau ăn thịt trút, ăn rùa và nhất là cơm khê thì lính rất kiêng, kể cả cán bộ tiểu đoàn. Thằng anh nuôi mà sơ ý để cơm khê là nghe chửi vỡ mặt rồi chuẩn bị cọ nồi mà đi nấu nồi khác. Được thả, con trút đang cuộn mình từ từ duỗi ra rồi chậm chạp lủi vào một cái hốc. Khẩu 37mm của địch bây giờ không thấy bắn nữa. Thông tin trung đoàn thông báo là E1 đã tịch thu được nó rồi. Thu nốt cả cái xa ô tô kéo pháo. Tiểu đoàn tôi lại được lệnh quay lại nhà ga, theo đường bò bắc lộ 27 tiến giữ sườn cho trung đoàn 1. Đường bò là loại đường dân sinh. Nông dân Campuchia thường dùng loại xe gỗ bánh cao do đôi bò kéo để vào rừng, lên rẫy. Những con đường do bò kéo bao giờ cũng có hai vệt bánh xe, ngang dọc khắp rừng. Chiều tà, nghỉ giải lao tại một cái nhà tôn có cần anten cao vút địch bỏ chạy chưa kịp dỡ. Anh Trung tham mưu tiểu đoàn bảo đây chính là sở chỉ huy sư đoàn địch. Tôi gặp thằng Thọ - bạn cùng lớp cũ - trong đội hình tiểu đoàn 6 đang hành quân qua. Khẩu cối 60 cồ cộ trên vai, đầu chụp cái mũ nhựa ép dạng mũ sắt của QLVNCH cũ, không biết nó kiếm được ở đâu. Nó thả khẩu cối bịch xuống đất, xin tôi hớp nước. Nói được dăm ba câu chuyện rồi lại vác cối lên vai, lùi lũi đi theo đội hình. Lại tiếp tục lên đường. Đi mãi đến sâm sẩm tối, đơn vị dừng lại ở một cái phum cũ, rừng vây xung quanh. Không còn nhà cửa, chỉ có thể nhận biết là nơi từng có người ở qua những cây me, cây chùm ruột lẫn trong những hàng rào đổ nát. Các đại đội lặng lẽ bố trí đội hình. Lại cấm đốt lửa, chúng tôi bẻ cơm vắt được phát hồi trưa, chấm với bột gia vị cố mà nuốt. Đêm trong rừng núi tịch lặng và bí hiểm. Trên những cây dầu lớn, trong những hốc người ta đục vào thân cây đốt để lấy dầu, ánh lửa chập choạng ma quái. Đâu đó phía xa, vài tiếng súng lẻ vang lên rồi tắt ngấm. Sau tiếng súng, không gian như càng im vắng hơn. 4 h sáng. Dậy! Tiếp tục hành quân. Lần này đơn vị bỏ đường lộ cắt xiên sang tay phải vào rừng. Tốc độ hành quân chậm do trinh sát phải dò dẫm bám địch. Đi được một lúc, sau khi vượt qua một con suối có một bờ cao dốc đứng, đội hình dừng lại. Đằng trước có tiếng chặt cây chan chát cùng tiếng đào đất thình thịch. Địch đang chặt cây làm hầm chiến đấu. Tiểu đoàn báo về trung đoàn đã phát hiện địch rồi triển khai đội hình bí mật tiếp tục bám dần lên. Đại 3 vượt sang bên phải sẵn sàng đánh sườn. Đã gần địch lắm rồi. Trong khi đặt đạn, không biết đứa nào bên cối đại 4 để gánh đạn va vào mâm cối đánh “cốc” một tiếng. Tiếng chặt cây lập tức im bặt. “Cóc! Oành…!”. Quả M.79 của địch bắn thăm dò trúng một thân cây loé xanh nổ. Không ai bắn trả. Tất cả lại im lặng. Tôi nghí thầm bọn này ghê gớm đây! Không gọi 2W vì sợ lộ, tiểu đoàn cho truyền đạt bò lên các đại đội lệnh khi phát hiện địch cho hoả lực nổ súng đồng loạt áp đảo. Tổ truyền đạt vừa về đến tiểu đoàn thì “Ùng ! Uỳnh!”. B.40, B.41 thi nhau nổ tức ngực. Tiếng đạn nhọn ré lên ngay tức thì . Trời đã mờ sáng. Lính đại 1, đại 2 cứ thấy chỗ nào có ụ đất mới hoặc cành cây gãy còn tươi lù xù trên đất là thổi B.40, B.41 vào đấy. Lối tiếp cận quá gần cùng hoả lực mãnh liệt làm cho bọn nó choáng. Sau khoảng 15 phút là tháo chạy ngay. Bỏ lại hơn chục thằng toi mạng trên dãy hầm mới đào đêm qua. Có thằng nằm vắt nửa trên nửa dưới hầm, cánh tay và gần nửa người bị hơi nổ tuốt đi. Cối 82 đại 4 mới bắn chi viện hơn chục trái đã phải tháo súng lên theo bộ binh. Truy kích thêm nửa cây số nữa đến một cái phum. Địch chạy tuốt vào đấy rồi tổ chức chống trả. Cối 60 của địch trong phum hoàn hồn, bắt đầu lên tiếng. Hai khẩu cối 82 của đại 4 bắt đầu giã vào phum. Mấy thằng lính cối khôn vặt tranh nhau tháo đạn để khỏi mang nặng. Hễ cứ nghe tiếng M.79 hay tiếng cối ta, cối địch đề pa “Coong!” một tiếng, y như rằng tiếng đạn nhọn lại câm bặt. Nổ “Oành!” xong một cái thì lại rồ lên như xé vải. Đạn cối địch rơi ngay trúng đội hình tiểu đoàn bộ. Thằng Khoát người Thanh Hoá lính vận tải bị một quả cối 60 nện giữa đỉnh đầu. Phần sọ biến mất. Chi còn xương hàm dưới với khúc đứt đầu tuỷ sống nám đen thuốc nổ. Đại 1, đại 2 vẫn chưa vượt qua được trảng trống trước phum. Đúng lúc đó, phía sau đội hình, tiếng súng địch toang toác rộ lên rất gần. Chúng nó đánh bọc đít. Bọn này cơ động nhanh thật. Anh Sơn điều một trung đội của đại đội 3, cùng với thông tin, trinh sát tiểu đoàn bộ vận động ra phía sau chặn địch. Lúc trung đội của đại 3 vận động ra phía sau, có tiếng lao xao :” Đại 3 chạy kìa!”. Anh ấy vằn mắt nhìn quanh. Tôi tin là nếu phát hiện thằng nào vừa lên tiếng, ông ấy bắn cho vọt óc. Chúng tôi bắn dữ dội về phía sau, mặc dù không nhìn thấy địch. Phía trước, bộ đội đã bám được vào rìa phum. Tiếng súng thưa dần. Cối 82 quay nòng giã về phía sau mấy trái. Bọn bọc đít biết tình hình không ổn nên cũng chuồn nhanh. Tiểu đoàn 4 đã làm chủ trận địa. Đơn vị dừng lại củng cố vị trí đứng chân sau 2 ngày đánh địch, vượt quãng đường gần 50 km. Anh nuôi triển khai nấu cho bộ đội ăn cơm nóng. Đang mùa khô, lính ăn 8 lạng một ngày (mùa hè 7 lạng gạo/ ngày). Thông tin còn trên tiểu đoàn 9 người, vị chi là 2.7 kg, vừa xoẳn cái ruột tượng tôi mang. Khốn nạn hệt mấy thằng lính cối lúc nãy, tôi nhanh chân đến xoong quân dụng của thằng Cầm điếc trút tuột hết gạo vào. Nhẹ mang đi được mấy ký. Thậm chí còn nháy mắt với thằng Ban trố đến sau. Trừ các trung đội cảnh giới vòng ngoài, lính ta bắt đầu lục lọi kiếm ăn. Tôi lục được một chum đường thốt nốt, múc đầy một ca inox rồi vẫy tay gọi chúng nó. Sau một loáng chỉ còn lại cái chum không. Của này buổi tối lạnh nấu một nồi chè thì cả trung đội ấm chân răng. Còn cái gì đây thế nữa? Ah! Một dãy toàn chum đựng muối đầy ặc. Muối biển tải lên rừng để kháng chiến lâu dài đây mà. Mấy thằng xúm lại, hè nhau lăn ra dốc hết xuống suối. Lia thêm loạt AK, mấy cái chum vỡ toác. Thế là đi ráo cả cặp phạm trù nội dung lẫn hình thức. Xin các nhà đạo đức đừng vội kết án. Chiến tranh là thế đấy! Tiểu đoàn tôi hôm nay đã mất đi ba người nữa rồi…Trên một căn nhà khác, tôi tìm được một con dao cắt kính. Con dao nhỏ chuôi gỗ đen bóng khắc nhiều hoạ tiết, chuốt cong như một mái chùa xứ này. Có thể nói là một tác phẩm tuyệt đẹp. Tôi dám chắc nghệ nhân chế tác ra nó chỉ để chơi mà thôi, chứ không phải để rạch cắt trên bất cứ tấm kính thô lỗ nào. Gia tài bẻ bỏng trong ba lô của tôi thêm một món đồ. Nào! Thử kiểm kê xem nó có những gì: Một bộ quần áo lính vải kaki gabađin Nam Định (đang mặc trên người), thêm một cái quần dài vải chéo đã mủn vài chỗ. Đôi áo lót trước kia là màu trắng. Hai cái quần đùi giải rút lính, rộng thùng thình, chừa rất nhiều tự do cho đối tượng mà nó cần bảo vệ. Một cái võng vải còn khá tốt lột được của địch. Tấm nilon dày phát từ thời huấn luyện ở Phủ Lý. Hai cuốn truyện lấy được gần phà Niek Luong hao gầy dần đi theo năm tháng, vì ngoài chức năng phục vụ văn hoá, nó còn phải phục vụ thêm một số nhu cầu bắt buộc khác. Cái địa bàn Mỹ anh Phát tôi (lính trinh sát cũ bị thương năm 75) cho trước khi vào bộ đội. Bịch thuốc rê và tập thư bọc kỹ trong túi nilon quý hơn vàng. Mấy miếng liều cối 60 và sợi dây inox để kéo lửa khi trời mưa ẩm và để bôi dán ghẻ. Năm viên đạn vạch đường (tích trữ do sợ bị lạc). Cái bát sắt B.52 và đôi đũa. Bây giờ có thêm con dao cắt kính nữa. Hết! Thêm máy móc, súng đạn, tất cả gọn nhẹ trên người 16 kg, không kể đôi dép đúc lấy của thằng Năm đã hy sinh dưới chân. Như thế thôi nhưng còn khá giả hơn khối thằng trong đơn vị. Mùa mưa đã gần tới. Phải đập tan phiên hiệu các đơn vị địch, phá huỷ các căn cứ hậu cần của chúng, tạo thế đứng chân trong mùa mưa là nhiệm phải hoàn thành gấp rút. Chúng tôi đi như bị phát cuồng. Hành quân cả ngày, đôi khi cả đêm. Càng vào sâu trong thung lũng đi càng gấp. Đụng địch ở đâu đánh địch ở đó. Một đêm trong khoảng trung tuần tháng 3, sau vài lần chạm súng lẻ tẻ với bọn trinh sát, chúng tôi đã tiến gần tới Ăm leng. Con đường cát trắng, mờ mờ bụi dưới ánh trăng. Hai bên là rừng thẫm tối. Đến gần sáng thì đại đội 3 chạm địch. Anh Thoan đại đội phó đi cùng trung đội đi đầu lĩnh đủ một phát M.79 bi. Lính tản ra nằm xuống bắn loạn xạ rồi bò lui, kéo được anh ấy vả thằng liên lạc về. Ngực và bụng lỗ chỗ vết bi, máu ra đẫm ướt cả cái võng, anh ấy khò khè được vài tiếng, kêu “Mẹ…!” rồi tắt thở. Hy sinh hai, bị thương một. Ơi anh Thoan! Hãy yên nghỉ! Quên đi những phút nổi khùng giữa hai anh em mình nhé! Quên đi những lời đàm tiếu hay những phút yếu lòng! Đơn vị mình mà túm được cái thằng chó bắn phát M.79 ấy sẽ mang nó ra tế vong linh Liệt sỹ! Tiểu đoàn tôi quân số vãn dần đi. Mỗi đại đội còn hơn ba chục tay súng khi xung phong là đã thấy vững lòng. Nhưng trường hợp hy sinh của anh Thoan làm tôi suy nghĩ mãi. Con người ta ai cũng có đôi khi cảm thấy sợ hãi, nhưng lại có những lúc lao lên dấn thân đi đầu như anh chăng? Bản thân tôi cũng tự thấy mình đã mừng rỡ một cách khốn kiếp khi được chọn vào trung đội thông tin nhiều cơ hội sống sót hơn. Cả đến bây giờ vẫn thấy là mình đã may mắn mới tệ! Chúa ơi! Sao Người không tạo những cơ hội cho con người được soi trong những cảm xúc yên lành, để được thấy rằng mình tốt đẹp và tử tế. Chiến tranh quả thực là một tấm gương buồn. Tôi bỗng nhớ một bức tranh khắc gỗ của một tác giả nước ngoài vẽ người lính Việt. Bố cục là một cái mũ sắt trùm lên gương mặt trầm tư đang cúi xuống ống sáo trúc. Ngang vai sau lưng, vạch qua nòng súng là một đàn cò giăng giăng… Hay người lính Nga trong bộ phim vượt sông Dniep. Cả cánh đồng lúa mì đang cháy. Gã mujich phủi tàn lửa ở ống quần, tuốt một bông, xoa xoa trong bàn tay to bè thô kệch cho sạch vỏ rồi hất vào mồm…Thân phận quá! Vì trước khi là lính, tôi và họ đều là những con người bình thường. Đêm ấy đơn vị triển khai đội hình tại chỗ chờ trời sáng. Đó đây, trên các hướng khác thỉnh thoảng lại rộ lên tiếng súng, càng gần sáng càng dữ dội. Có cả tiếng động cơ ô tô rì rì, không rõ xe ta hay xe địch. Tang tảng sáng, mờ mờ địa hình địa vật. Cối 82 đại đội 4 bắt đầu bắn. Bắn thì cứ bắn thế thôi, chứ có xác định được vị trí địch đâu. Các đại đội giữ sườn cho nhau. Bộ binh bám đường tiến dần lên. Lên qua chỗ địch phục kích hồi đêm 200m, cả tiểu đoàn lại chúi xuống. Hai bên rìa đường phía trước, hai khẩu đại liên địch bắn chéo cánh sẻ rèn rẹt. Lính tráng hồi này cũng hư, cứ gặp hoả lực địch hơi mạnh một chút là nằm kềnh ra, ỷ vào hoả lực tiểu đoàn. Rừng dày thế này, DK.82 xếp xó mặc dù đã giá súng. Hai khẩu 12.8mm trong phòng ngự thì lợi hại , hoặc ngỏng nòng bắn trợ chiến khi xung phong cho nó hách, chứ còn trong trường hợp này cũng vô dụng. Tất cả trông chờ vào 2 khẩu đội cối 82 và mấy khẩu cối tép dưới các đại đội. Đúng lúc đó, có tiếng động cơ xe tăng rền rền phía sau. Từ đâu lòi ra 4 cái T.54 của lữ đoàn 22, phun khói mù mịt. Trưởng xe tháo mũ công tác gào lên hỏi bộ binh tình hình địch rồi lại thụt vào xe. Bốn chiếc tăng vượt qua đội hình, càn qua cả những bụi cây nhỏ xộc thẳng vào vị trí địch. Bộ đội bám liền ngay theo sau. Pháo 100 và trọng liên 12.8 mm trên xe nổ điếc tai. Rừng rung rinh nghiêng ngả. Mấy thằng lính chạy gần nhăn cả mặt, há cả mồm. Tiến được một lúc nữa, mấy chiếc tăng tự nhiên dừng lại. Thằng xạ thủ 12.8mm trên tháp pháo quay xuống hỏi các anh đơn vị nào? Khi biết chúng tôi là trung đoàn 2, bọn tăng ơi ới gọi nhau trở lui ngay lập tức. Thì ra bọn này có lệnh đi phối thuộc với trung đoàn 1 lại nhầm đường sang hướng đơn vị tôi. Đường bò ngang dọc trong rừng. Chưa biết tiến hướng nào thì nghe chúng tôi nổ súng dồn dập nên đổ xô đến. Ôh! Cảm ơn chiến hữu về sự hiệp đồng bất ngờ này! Bọn lính chúng tôi quen gọi những trận chiến đi qua theo đặc điểm riêng của nó. Chẳng hạn trận “rừng tràm”, trận “cầu cháy”… Và lần này là trận “xe tăng nhầm đường”. Một đám dân bạn rách rưới cùng mấy chiếc xe bò đi ngược về hướng đơn vị. Tiếng mõ bò lốc cốc. Mấy người đi đầu huơ khăn cà ma rối rít rồi kín đáo chỉ về phía sau. Chúng tôi dạt sang hai bên đường cảnh giác. Y như rằng! Bọn địch bám theo dân thấy động lủi sang hai bên rừng, bắn mấy loạt réc réc rồi biến mất. Một cái trảng nhỏ xuất hiện bên tay trái. Ngô mọc mới đến ngang thắt lưng tạo một khoảng xanh giữa vùng rừng cháy. Thẩp thoáng trên triền bình độ thấp trong hõm núi, cách chúng tôi chừng 300m là mấy mái tôn xám nhạt. Vết bánh xe tải ngang dọc trên bãi. Đây là cứ của địch rồi! Tiểu đoàn dàn hàng ngang tiến đến. Bộ binh đi đầu bắn như vãi đạn. Trung đội đi đầu đã lọt hẳn vào trong khu vực mà không hề có tiếng bắn trả. Địch đã bỏ chạy. Vào đến nơi mới thấy đây là một căn cứ hậu cần quá rộng. Một chiếc xe Hoàng hà vẫn còn đang nổ máy. Đường đi lối lại phong quang. Thậm chí trong bếp lò nấu cơm, than vẫn còn hồng. Trong các nhà tôn, chất đến gần mái toàn là vũ khí các loại. Có đến hàng vạn khẩu súng. Thôi thì đồ Mỹ đủ loại : AR.15, M.16, M.72, M.79, đại liên 30 hai càng…Đồ Trung quốc cũng oách : AK, CKC, K.63, rồi lựu đạn chày, nụ xoè, kíp nổ, thuốc nổ các loại…Chỉ huy tiểu đoàn báo ngay về trung đoàn rồi bố trí đội hình các đại đội bảo vệ kho súng thu được. Hai hôm sau, xe vận tải sư đoàn đến bốc dỡ ngay. Lính tiểu đoàn 4 chốt ở đó cứ tuỳ tiện mà trang bị thêm. Tôi cũng lấy một khẩu M.16, bắn bậy chán rồi cũng quăng lên xe vì ngại mang nặng. Trong một căn nhà tôn vách gỗ mà đại đội 1 dùng làm chỉ huy sở có cả một chiếc máy phát điện cỡ lớn Made in Germany, choán gần hết diện tích. Cái máy mới cáu cạnh, to gần bằng cả gian nhà, được địch bảo quản rất cẩn thận. Về sau khi rút đi, không có cẩu mang đi được nên trung đoàn cho lệnh đặt mìn phá huỷ. Của một đống tiền, thật tiếc! Mười ngày bảo vệ kho súng là mười ngày xả hơi của đơn vị. Vừa được thành tích, vừa được nghỉ ngơi, trong khi các đơn vị khác đi càn rã cẳng. Quanh khu vực đứng chân, rừng dâu da đất đang mùa, chín từng chùm lúc lỉu màu hồng sậm. Tôi khoái cái vị chua ngọt thanh thanh của nó. Nhưng anh Ky bảo tọng vừa thôi, không thì sốt rét ốm đòn bây giờ! Cha này người Thái trắng, quê huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Anh ấy hơn tôi một năm lính nhưng cái gì cũng biết. Vận tải sư đoàn chuyển xong kho vũ khí, chúng tôi lại lên đường. Thời tiết càng về cuối mùa khô càng khốc liệt. Rừng dầu, rừng khộp rụng lá, nắng chói chang. Triền rừng bốc hơi nóng, rung rung dưới nắng. Thảm mục và cỏ gianh dưới chân rừng đã cháy hết, liếm cháy cả bên ngoài lớp vỏ những thân cây. Chúng tôi hành quân, quệt ngang quệt dọc một lúc là mặt mũi quần áo thằng nào thằng nấy lem nha lem nhem, đen sì như hề. Nhưng đáng sợ nhất là thiếu nước. Mang nặng quá, những thứ khác có thể quăng đi chứ bi đông nước thì dứt khoát là không. Đi rạc rài nửa ngày không có nước mà gặp một lòng suối cạn, lớp cát đáy còn hơi âm ẩm là cả một niềm hạnh phúc bất ngờ. Dùng xẻng bộ binh khoét xuống lòng suối khoảng 1m. Ngồi chờ nước ri rỉ ứa ra, lờ lờ đục. Chúng tôi giải khát luôn bằng thứ nước ấy, tích trữ trong bi đông cũng bằng thứ nước ấy. Ấy thế mà không đứa nào bị tháo dạ mới lạ. Một lần, cũng trong tình huống khát nước như thế, chúng tôi tìm thấy một hủm nước trong vắt giữa lòng suối cạn. Trên bờ rặng le ngả bóng xanh om. Quả là may mắn! Chúng nó uống và lấy nước chán chê. Vũng nước đã gần cạn. Đến lượt mình, tôi vục mũ đưa lên miệng làm một hơi sảng khoái cho đã. Nước mát lạnh và ngọt đến không ngờ. Khi vục bi đông để lấy nước dự trữ, tôi bỗng thấy cái gì trăng trắng dưới đáy. Định thần nhìn kỹ lại thì cha mẹ ơi! Cái đầu lâu người trắng nhờ đang nhìn tôi bằng hai hốc mắt vô hồn mọc đầy rêu. Hàm răng nhe ra như nhạo báng. Tôi giật mình bật ngửa hét toáng lên. Mấy thằng chạy ào xuống, ngó vào vũng nước lom lom rồi cũng thấy sởn da gà. Hai hốc mắt sâu hoắm của cái sọ người đang hấp háy, bỗng dựng lên một hàng mi dài thượt như nổi giận. Một thằng can đảm nhất bẻ vội cành le khô chọc xuống, hẩy cái sọ lăn đi. Từ trong hốc xương mắt, mấy con cá nhỏ bị quấy rầy vọt ra. Kinh quá! Hoá ra mấy con cá quậy bên trong làm rêu trong hố mắt toé ra. Ấy thế mà cũng chẳng ai đổ bi đông nước của mình đi. Đằng nào thì cũng đã vào bụng rồi! Dùng thứ nước này còn hơn là uống nước đái. Nói thế bởi vì chúng tôi đã có những lần phải đái ra mà uống. Nắng như thiêu đốt. Hành quân mệt nhọc. Mồ hôi rịn ra giọt nào khô ngay giọt đó, thấm vào quần áo cứng như mo nang. Môi đã nứt nẻ hết cả. Trên bản đồ còn tới 5km nữa mới đến nguồn nước. Thế là tè vào bi đông mà uống để có đủ sức mà lết đi. Mà nước tiểu có nhiều nhặn gì cho cam! Cố mà rặn may chỉ được chục nắp bi đông, đỏ quạch, mặn và nồng không chịu được. Lại một lần khác, đơn vị cũng gần như lả đi vì khát nước thì đại đội 3 phạt hiện một con trâu. Trời cứu ta rồi! Hai loạt AK vang lên. Con trâu ngã kềnh ra. Anh em lao vào xẻ thịt, thái những miếng thịt to như bao diêm rồi quăng vào nồi quân dụng. Lửa được nhóm ngay lập tức. Nồi thịt trâu đã xình xịch nước. Ưu tiên ngay cho những ai yếu nhất. Phần còn lại chia cho mỗi người một hụm. Thịt chín thì rục ngay ra rừng, để đưa lượt thịt mới vào đun tiếp lấy nước. Yên bụng tàm tạm lại khoác súng lên đường thiên lý. Càng đi tới gần suối hay gần nguồn nước càng phải cảnh giác. Địch hoặc thú dữ cũng hay dựa vào đấy để tồn tại qua mùa khô. Giữa vùng rừng khô khát vàng cháy bỗng xuất hiện một vệt xanh sẫm của rặng le thì đích thị đấy là suối hoặc suối cạn rồi. Triển khai đội hình cẩn thận, thậm chí bắn thăm dò, cử tổ cảnh giới xong xuôi mới có thể yên tâm mà giải khát.      Thời gian này, địch đã bắt đầu tan rã hoặc phân tán nhỏ lực lượng. Để đáp ứng tình hình mới, thay vì tổ chức những trận đánh hiệp đồng quy mô lớn, trung đoàn tôi cũng phân tán từng tiểu đoàn độc lập truy quét địch. Mùa mưa chuẩn bị bắt đầu. Tiếng sấm đâu đó đã ì ầm thoảng qua phía chân trời. Rừng dầu đang thay lá. Từ những thân cây, cành cây vỏ cháy đen trong những trận cháy rừng mùa khô, những búp non xanh mỡ đã xoè tay đón nước. Tiểu đoàn 4 (thiếu đại đội 3), sau khi càn qua phum chuối (lính gọi như thế vì phum này mọc rất nhiều chuối) sát phía đông chân núi Ô răng S’vai thì rút ra cách đó 6 km, để lại đại đội 1 có tăng cường khẩu đội 12.8 mm của đại 4 chốt lại. Tại vị trí đứng chân của đại đội 1 có một con suối chảy theo hướng Bắc – Nam, ở giữa có cây cầu gỗ nhỏ bắc ngang. Rừng bám vào tận rìa phum. Gần như không còn tổ chức lại được lực lượng, địch thấy ta là chạy. Trận nào hiệu suất lắm cũng chỉ diệt được ba bốn tên là may, nên bắt đầu có tư tưởng chủ quan khinh địch. Có thể vì thế mà anh Khanh khi bố trí đội hình đại đội 1 đã đưa chỉ huy sở đại đội lên đầu nguồn nước, tại tiền tiêu luôn. Lại còn giỡn với các trung đội là lần này cho chúng mày ăn …ghét văn phòng. Liền kề là khẩu đội cối 60mm. Kế đến khẩu 12.8mm chẹn ngang cái cầu gỗ. Bên kia suối là trung đội 2 và trung đội 3. Trung đội 1 nằm ở cuối nguồn, cách quan sát sở 120m. Các đồng đội của tôi! Các bạn còn nhớ cái thú tắm suối mùa khô không? Nước mát lạnh, trong văn vắt, cuốn đi bao nhiêu mệt nhọc, bụi đường. Nước mát nâng ta lên, bềnh bồng ve vuốt. Những con cá nhỏ rỉa vào chân, vào lưng buồn buồn, nhồn nhột. Bên ngoài đã sạch rồi, làm sạch nốt trong lòng bằng cái việc không được thơ cho lắm là…ỉa bậy. Tôi thì tôi cho rằng ngồi cái bồn cầu bằng vàng ròng của Satdam ở Batda đã chắc gì thú bằng làm cái việc ấy trong lòng suối mát đang xuôi chảy. Sáng Chủ nhật, ngày 15/4/1979. Trời xanh trong, nắng đẹp. Như mọi chủ nhật khác, chương trình văn nghệ Chủ nhật dành cho chiến sĩ từ 7h30 đến 8h sáng đang phát đi đoạn nhạc hiệu quen thuộc. Thằng Căn liên lạc với tay vặn to cái radio bán dẫn rồi ôm quần áo ra suối tắm. Dưới suối, rất đông lính các B đang bì bõm giặt áo quần bỗng nghệt mặt ra nhìn : mái nhà, vách nhà bằng gianh của chỉ huy sở đại đội bỗng bay tung lên trời. Liền luôn đó mới là tiếng B.40 mà tiếng đề pa đầu nòng chập làm một với điểm nổ. Tiếp một phát B.40 tức ngực nữa giật tung lều cối, may mà không đưá nào bên trong. Đạn trung liên, đạn AK cày tung hai bên bờ suối. Địch rồi! Nó đã làm chủ vị trí chỉ huy sở và trung đội 3. Anh Tảo người Hà Bắc- Trung đội trưởng 12.8mm đang tắm cứ cởi trần nồng nỗng, nhảy lên khẩu 12.8 cạnh cầu, hất tung tấm tôn che súng bắn cản địch. Lính ta quần đùi áo may ô, trong tay không vũ khí chạy trắng lòng suối về hướng nam - hướng trung đội 1. Hoả lực, đạn nhọn của địch tập trung vào diệt khẩu 12.8mm. Chịu không nổi, xung quanh cũng chẳng còn ai, bố Tảo bắn thêm được mấy loạt ngắn nữa rồi cũng bỏ súng chạy nốt. Thằng Tư trung đội 3 lớ ngớ tưởng còn chỉ huy sở, lại thấy 12.8 vừa giòn giã liền chạy về qua cầu. Bị đạn nhọn rớt bịch xuống suối chết ngay. Anh Lượng – (người Hải hưng, biệt danh Lượng khỉ) mới về nhận chức đại đội phó ngày hôm trước chỉ kịp vơ khẩu AR.15 không biết của ai và một băng đạn, kéo thằng Căn nhảy đại xuống một cái hầm sát bờ, cứ thấy bóng áo đen là điểm xạ. Dưới lòng suối, hai cái đầu đen thò lên cách hầm có 7m. Cò lại xiết nhưng hộp đạn rỗng không. Anh ấy nhanh trí giương súng quát to :“lớc đay lơn!” (giơ tay lên). Hai thằng địch hụp đầu xuống. Hai thầy trò kéo tay nhau vọt lên miệng hầm chạy gấp. Khẩu 12.8mm địch đã chiếm được quay nòng bắn theo mục tiêu vừa phát hiện. Đạn cày tung dưới chân, xuyên qua dãy thùng phuy làm dầu bốc cháy ngùn ngụt. Thật là còn may! Khói dầu đã cản tầm quan sát của địch. Trên trận địa chỉ còn khẩu đại liên của thằng Lễ là còn lên tiếng, khằng khặc thêm một thùng đạn rồi cũng tháo súng tuỳ nghi di tản. Cha con anh em đại đội gom dìu nhau ở trung đội 3, theo con suối, thất thểu chạy về tiểu đoàn. Anh Quang râu, chính trị viên phó cũng bị một phát AR.15 xuyên bắp chân, đi tập tễnh. Thằng Tường lé, thằng Ban trố mất máy PRC.25, đôi mắt thất thần. Lính tráng non nửa là quần đùi áo lót, đi tay không, súng ống , ba lô mất sạch. Khẩu cối 60mm cũng rơi vào tay địch. Thấy thằng Gia “cà bây” vẫn còn gánh 6 quả cối trên đòn, Thằng Trung B1 bảo sao không vất mẹ nó nốt đi rồi trang bị mới luôn thể. Thằng này cáu bảo vất đạn lại để nó giã cho vỡ đầu ông vải nhà mày ra à? Hục hặc như thế nhưng cũng chẳng còn lòng dạ đâu mà đánh nhau nữa. Kiểm điểm lại đại đội 1 trong sáng hôm ấy mất một khẩu 12.8mm; một khẩu cối 60mm; một máy PRC.25; 12 AK và RPD; hy sinh 5; bị thương 3. Tử sỹ không mang đi được. Đến trưa thì về đến đội hình tiểu đoàn. Gương mặt ai nấy bơ thờ. Đau quá! Anh Sơn lệnh ngay phần còn lại của đại đội 1, toàn bộ đại đội 2 và một khẩu đội cối 82 đại đội 4 do anh Thào - tiểu đoàn phó chỉ huy, quay ngay lại đánh địch. Vào đến nơi thì địch đã rút đi từ bao giờ. Tại chỉ huy sở đại đội 1, cái máy 2W nằm móp méo, lăn long lóc. Tử sỹ bị chúng nó dùng xẻng bộ binh băm nát mặt. Ba lô quần áo cũng bị rạch nát tứ tung. Tiền phụ cấp chúng tôi vừa mới lĩnh (toàn tiền mới) bay như bươm bướm trên mặt đất. Trong một bụi cây gần chỗ bố trí khẩu đại liên cũ, anh Thào lấy gậy chọc chọc, lôi ra một thùng đạn đầy nguyên rồi gọi toáng lên :” Lễ! Lễ lại đây! Mẹ mày! Bảo bắn hết đạn rồi mới chạy thế thùng đạn nào đây?”. “Đạn địch đấy anh ơi!” . “ Mẹ! Cờ đỏ sao vàng lè lè ra thế này mà mày dám bảo là đạn địch à ?”. Thế là cứ cái gậy sẵn đấy, ông ấy quất vun vút. Thằng Lễ đại liên chân dài, ôm vội thùng đạn rồi bỏ chạy sau khi ăn mấy chưởng gậy vào lưng. Thu dọn chiến trường xong xuôi, về đến đội hình tiểu đoàn thì trời đã tối. Thật là một đêm nặng nề! Nửa đêm về sáng, có hai phát pháo hiệu xanh vọt lên trên đỉnh rừng, cách chúng tôi khoảng 3 km. Điện về trung đoàn hỏi thì được thông tin là không có đơn vị nào đứng chân hay làm nhiệm vụ ở vị trí đó. Xác định rõ là địch đang bâu bám tiểu đoàn 4. Sáng hôm sau, chỉ huy tiểu đoàn triệu tập toàn bộ các đại đội và trung đội trưởng về họp rút kinh nghiệm. Căn cứ lực lượng địch trong trận đại 1 mất chốt và các dấu hiệu đêm qua, dự đoán địch sẽ có thể đánh vào đội hình tiểu đoàn nay mai. Các đơn vị củng cố hầm hào sẵn sàng đánh địch. Cử các tổ thám sát vòng ngoài phát hiện dấu vết, tránh bị bất ngờ. Cuộc họp ngắn vừa tan thì xe tải trung đoàn có một trung đội của đại đội công binh 19 hộ tống vào đến nơi. Bổ sung súng đạn xong xuôi, tử sỹ thương binh được chuyển lên là xe vội biến ngay vì sợ bị phục kích. Tiểu đoàn trưởng trực tiếp bố trí lại đội hình. Cái phum đơn vị tôi đang đứng chân lính gọi là phum “cây dừa cụt” hoặc “phum 19”. Trước đây một thời gian, đại đội 19 công binh trực thuộc trung đoàn đóng quân ở đây nên mới đặt tên như thế. Địa hình dốc thoai thoải từ cái chùa cũ đã bị phá huỷ, qua một trảng trống có một khẩu pháo 155mm xẹp lốp (thu được của địch, đã mất kim hoả) là đến con suối cạn hình cánh cung, ôm lấy rìa phum. Đại đội 2, xác định là hướng chủ yếu, bám rìa con suối cạn cắt ngang con đường. Khống chế trảng trống sườn phải ban chỉ huy tiểu đoàn là trung đội vận tải và khẩu đại liên 30 Mỹ do thằng Luân – liên lạc tiểu đoàn lấy được ở kho súng tháng trước (ba cán bộ tiểu đoàn mỗi người một liên lạc). Tôi nhớ thằng Luân người Thanh Hoá, người nó to vật vã. Cái ba lô trên lưng nó cõng đồ cho cả hai người, cả nó cả chỉ huy mà vẫn lọt thỏm trên tấm lưng bè bè như cái phản. Ngoài khẩu AK treo bụng, nó còn vác thêm trên vai khẩu đại liên Mỹ này. Băng đạn quấn ngang quấn chéo đầy mình, cứ đụng địch lại hạ càng bắn rèn rẹt. Phần cao nhất địa hình là cái chùa đổ ở chếch phía sau bố trí đại đội 4 với khẩu 12.8mm còn lại và 2 khẩu cối 82mm. Đại đội 1, có tăng cường khẩu DK.82, giữ sườn trái tiểu đoàn. Vị trí đại 1 nằm trong một chòm cây rậm sát bìa rừng thưa, cách tiểu đoàn bộ khoảng 200m bằng một khoảng ruộng khô. Chỉ huy đại đội bây giờ là anh Tuy “voi” Hà Bắc, thay cho anh Khanh. Anh Lược, dân Hải Phòng làm chính trị viên phó thay cho anh Quang râu bị thương hôm trước. Như là duyên nợ, tôi và anh Ky lại được điều động xuống đại 1. Ngày 17/4/1979, buổi sáng, anh Sơn tiểu đoàn trưởng kéo theo thằng Điệp xách khẩu M.16 xuống đại đội 2. Hai thầy trò dò dẫm ngược lòng suối cạn xem xét tình hình. Việc này đáng nhẽ của trinh sát tiểu đoàn, nhưng không hiểu sao hôm đó anh ấy muốn trực tiếp thị sát. Vừa qua khỏi đội hình đại đội 2 hơn 50m thì đụng 2 thằng trinh sát địch. Thằng đi đầu đứng trên bờ suối mọc đầy le, há hốc mồm vì bất ngờ nhưng cũng kịp bóp cò khẩu M.79. Quả đạn bay thẳng vào đùi anh Sơn, rơi bịch xuống nhưng không nổ vì cự ly quá gần, không đủ vòng xoay. Thằng Điệp (người Huế- học sinh trường Quốc học hẳn hoi) cũng bị giật mình, chĩa khẩu M.16 kéo một loạt. Hai thằng trinh sát địch chúi xuống bỏ chạy. Thầy trò anh Sơn cũng tập tễnh dìu nhau tới đại đội 2 rồi về tiểu đoàn, lệnh cho các đại đội chuẩn bị đánh địch. Trung đội thông tin đang họp trong cái nhà sàn con con, nghe tiếng “Póc!” của M.79 và tiếng tiểu liên hướng lòng suối cạn, xớn xác ngó ra ngoài. Anh Nhương lao về hét thông báo địch vào rồi xua chúng tôi xuống các đại đội ngay. Tôi và anh Ky vừa lao xuống cầu thang thì khắp các đại đội, tiếng súng đã rộ lên. Hai thằng cắm cổ chạy vượt qua khoảng trống về đại đội 1. Không thể nói đạn bay chiu chíu hay cắc bụp bên tai nữa, vì lúc này đã ào lên như một nồi cơm sôi rền từ khắp các hướng. Sau mấy lần ngã chúi vì vấp, hai thằng cũng chạy về tới ban chỉ huy đại đội 1. Địch đã bám được vào lòng suối cạn trước mặt đội hình đại đội. Cứ nhô lên thằng nào là trung đội 1 xỉa ngay thằng đó. Biết không thể lên theo hướng này, nó để lại bộ phận bắn kiềm chế rồi quay sang bìa rừng đánh vào hướng trung đội 2, trung đội 3. Khẩu DK.82 nằm kẹp giữa hai trung đội làm liền mấy trái. Tiếng nổ làm tai ù đặc. Lính trung đội 2 hô ầm ầm :” Cối bắn trước đội hình 40m!”. Thằng Dung tiểu đội trưởng cối 60 do ù tai, lại đang cuống cả lên liền lấy cự ly 40m thả đạn. Quả đạn cối rơi sát ngay khẩu đội DK.82. Thằng Hạnh, xạ thủ số 1 dính ngay một mảnh vào đầu nằm quay táng ra. Một chú nữa dính mảnh vào đùi. Thằng Mận - tiểu đội trưởng DK phát khùng, cõng thằng Hạnh về đặt nằm trong quan sát sở rồi xách AK chạy xồng xộc về khẩu đội cối tính ăn thua đủ. Dung “kỳ đà” mặt xanh như tàu lá. Anh Tuy chửi ầm ĩ, can chúng nó ra. Bên hướng tiểu đoàn bộ, địch cũng bị trung đội vận tải với khẩu đại liên của thằng Luân ghìm chân không vượt qua trảng được. Cối 82 đại 4 cứ thì thụp giã vào bìa suối theo yêu cầu của đại 2. Thằng Cường vận tải thấy thưa đạn, bò lên định gí quả H.12 giá cạnh khẩu pháo 155mm thì bị chúng nó tỉa. Viên đạn có mắt đi qua trán nó. Anh Sơn bị thương vì quả M.79 hồi sáng, không đi lại được, nằm trong hầm quay điện thoại hỏi hết đại đội này đến đại đội khác rồi quay xuống đại 1. Cán bộ đại đội chạy hết xuống các B nên tôi báo cáo luôn :“Đại đội 1 vẫn vững! Anh yên tâm!”,” Ờ! Ngon nghe thằng em!”. Đúng lúc đó, ngay sau chỉ huy sở đại đội sát mép trảng, đằng sau ụ mối thấp thoáng mấy thằng địch áo đen. Tiếng AK toang toác ngay sau lưng. Đạn xuyên qua nóc lều lợp tạm bằng mấy mảnh tôn rách, thủng lỗ chỗ. Thằng Căn, thằng Đồng liên lạc nhảy ra núp sau lều, bắn cản địch. Sợ mất máy, tôi lăn vào lều, đè cả lên người thằng Hạnh đang khò khè, giật vội cái máy điện thoại rồi nhào ra. Thấy thằng Thư y tá đang nhớn nhác, tôi bảo nó trong lều còn thằng Hạnh đang bị thương nằm đấy, vào kéo nốt nó ra đi. Anh Tuy thấy địch đánh rát phía sau, thét khẩu đại liên quay lại, giá súng ngay cạnh lều bắn dữ dội. Lúc này chẳng thấy tiểu đội trưởng Quyến “khợp” đâu nữa, đại liên chỉ còn thằng Nhạ tân binh, người Thái bình và thằng Lễ. Thằng Nhạ cứ ngồi xổm chồm chỗm trên mặt đất mà đẩy cò. Hai thằng liên lạc và tôi cũng bắn điên cuồng hỗ trợ. Cái ụ mối lớn, cạnh gốc cây to mấy thằng địch nấp bục dần từng mảng. Biết không ngon ăn, chúng nó rút lui. Chúng tôi vận động lên đến đó, thấy quanh ụ mối máu me be bét lẫn cả bông băng. Thu được hai quả lựu đạn địch chưa kịp ném. Tôi chạy vào trong lều đại đội mắc vội dây vào máy. Chắc tiểu đoàn đang sốt ruột quay máy nên tôi bị giật rung cả tay. Lập cập mấy lần mới xong. Liên lạc lại thông suốt. Anh Tuy báo cáo tình hình, nghe máy một lúc rồi nhăn mặt, đưa tổ hợp cho tôi. Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Thế mà đã quá trưa lâu rồi !... Đến lúc này, anh Tuy mới gọi :” Thư! Thư! Băng cho tao!”. Anh ấy bị một viên AR.15 xuyên bắp đùi, máu ra không nhiều. Cái mũ cứng của thằng Nhạ cũng bị đạn xuyên thủng vành hai lỗ tròn vo lúc nó ngồi xổm bắn đại liên. Buổi chiều, nó cứ ngơ ngẩn sờ sờ cái lỗ thủng, cười ngây ngô. Khẩu DK.82, do quân ta đánh quân mình, bị thương 2, còn lại 3 người. Tiểu đoàn rút luôn khẩu đội này về đội hình đại đội 4. Trung đội 2 được lệnh bung ra ngoài đội hình đại đội, qua bờ suối cạn thám sát địch. Bọn này cũng chỉ lò dò qua trảng đến suối, loanh quanh một lúc, bắn bậy mấy loạt rồi về. Đạn thiếu, lính đi mót từng viên đạn lẻ rơi vãi tra vào băng. Chẳng bù cho những lúc chúng nó cứ bẻ đầu cát tút, dốc thuốc đạn đổ vào để nhóm bếp pha trà. Đại đội 3, sau một thời gian đi phối thuộc trung đoàn được trả về đội hình. Cắt rừng về đến nơi thì trời đã gần tối, bố trí ngay sau lưng tiểu đoàn. Thêm một đại đội, dẫu chỉ hơn ba chục tay súng, ai nấy cũng yên tâm hơn hẳn. Anh Tuy chào chúng tôi rồi chống gậy tập tễnh về tiểu đoàn bộ. Hôm sau cũng theo xe thương binh tử sỹ, cùng anh Sơn tiểu đoàn đi viện luôn, lập kỷ lục người chỉ huy đại đội 1 trong thời gian ngắn nhất (2 ngày). Anh Quảng trung đoàn cử về thay, nhận chức tiểu đoàn trưởng. Anh Chính ”tréc” người Hà nam ninh làm đại đội trưởng đại đội 1. Tình hình yên ắng trở lại. Sau một tuần củng cố, sư đoàn lại chuẩn bị chiến dịch đánh thông lên thị trấn Leach theo thung lũng phía bên kia núi Ô răng S’vai để phối hợp với các sư đoàn bạn. Trung đoàn 2 chúng tôi được lệnh trèo vượt núi này, chẹn ngang thung lũng để các đơn vị bạn lùa địch vào đấy cất một mẻ lớn. Ô răng S’vai là một dãy núi cao nằm theo hướng tây bắc – đông nam. Có những đỉnh độ cao tuyệt đối đạt gần 1500m. Địa điểm bắt đầu cắt vào để vượt núi được xác định đúng cái phum hoang mà đại đội 1 mất chốt tuần trước, cách phum “dừa cụt” tiểu đoàn 4 đang đứng chân 6 km. Mệnh lệnh rất rõ ràng, quán triệt đến từng chiến sĩ: bí mật bất ngờ, tránh các đơn vị nhỏ lẻ của địch, mang đầy đủ lương thực súng đạn tác chiến trong 6 ngày, nhất là đồ đựng nước uống. Chuẩn bị tư tưởng, hậu cần xong xuôi, trung đoàn lục tục lên đường.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét