Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2012

Chiến Dịch C 81 - 3


Biên Giới Tây Nam (tt) 3

4h sáng, nhận xong phần cơm vắt cho cả ngày dưới anh nuôi là hành quân ngay. Tiểu đoàn 4 đi đầu, theo con đường nhỏ (mà tôi đã vẽ trên sơ đồ trong bài viết này) ngược về hướng bắc. Cấm dùng thông tin vô tuyến, cấm bắn bắt liên lạc. Nói theo kiểu Tam quốc chí của La Quán Trung thì “người ngậm tăm, ngựa khoá nhạc cứ theo khe núi lần lần đi”. Một bộ phận của đại đội trinh sát 21 trung đoàn và trinh sát tiểu đoàn 4 thuộc địa hình đi trước bám địch. Gần 6h sáng có lệnh dừng lại. Trinh sát đã phát hiện có khói bay lên trong phum (bây giờ gọi là phum “đại đội 1 mất chốt”). Đơn vị im lặng dạt vào rừng, cắt lối khác áp vào triền núi. Bắt đầu leo dốc. Hai ba trăm mét độ cao khởi đầu còn ngon nhưng càng lên cao càng khó đi. Rừng nguyên sinh trên núi dày rịt dây leo. Tầng cây cao khép tán, toả bóng thâm u che phủ. Đã 9h sáng mà đáy rừng vẫn nhờ nhờ tối. Những cây con bên dưới bị cớm nắng, thân mảnh thẳng đuột, ken dày như thành. Tôi cũng biết là phải giữ hơi đều, hít sâu và thở ra từ từ, nhưng đến khoảng gần trưa thì mớ kiến thức dưỡng sinh ấy trở thành vô dụng. Mũi, mồm và tai cùng thi nhau hoạt động hết công suất. Đấy là còn được đi sau đấy! Còn mấy thằng trinh sát đi đầu, vừa đi vừa phạt cây mở đường lên thì phải biết chúng nó siêu như thế nào. Khoảng tiếp xúc giữa ba lô và lưng áo đã ướt đẫm mồ hôi. Rồi cái ruột tượng 5 ký gạo quàng quanh cổ cũng ướt nốt phần đáy. Quai máy, quai súng siết vào vai tê dại. Vẫn chưa có lệnh nghỉ. Đi! Đi cho kịp giờ hiệp đồng! Toàn đơn vị thằng nào thằng nấy khoanh tay trước bụng, còng lưng vượt dốc. Thằng Tào, thằng Lại anh nuôi đại đội 1 cậy mang nhẹ, chỉ phải khiêng cái nồi nhôm quân dụng, nên cứ băng băng vượt trước. Nhọ nồi quệt vào lá cây, từ lá lại quệt vào mặt những thằng đi sau lem nhem. Ông Thào tiểu đoàn phó tức, vừa xoa mặt vừa quát chúng nó xuống đi sau. Nhưng hai thằng này cứ như điếc, càng vọt khoẻ, mỗi lúc một xa. Bất lực! Thế là bố ấy lấy cái gậy chống phi theo luôn nhưng trượt. Đã thế lại còn mất đà ngã quay ra. Lính tráng cười ồ lên hô :” Tháo đạn đứng dậy!”. “Mẹ hai thằng cà chớn! Rồi biết tay tao!”. Chửi với chữa ngượng thế thôi chứ sức chó đâu mà đuổi! Tình huống khôi hài cũng làm quên đi cái mệt được một chốc. Quá trưa, có lệnh nghỉ ăn cơm. Tôi kiếm một chỗ phẳng, ngồi phịch xuống, dựa vào ba lô vẫn quàng nguyên sau lưng hồng hộc thở. Đỡ mệt, giở cơm vắt ra ăn. Bây giờ vợ hỏi muốn ăn gì còn phải nghĩ chứ lúc đó, vèo một cái là nửa vắt cơm với chút bột gia vị đã chui tuột vào trong bụng mà vẫn còn thòm thèm. Huống chi hôm đó lại có món mắm trâu của bọn cối đại 1. Thịt trâu ăn chán rồi, còn lại nước thịt. Chúng nó cho muối, bột gia vị vào rồi đun nhỏ lửa cho đến khi cô lại sền sệt. Đổ vào đoạn ống DK.82, lấy nilon bịt lại mang theo khi hành quân. Loại “mắm” đó hao cơm vô cùng! Nghỉ một lát lại leo tiếp. Rừng ở độ cao lớn quang hơn nhưng độ dốc lớn hơn. Bắt đầu có mây mù. Trời tự nhiên tối lại. Những hạt nước li ti nhưng dày đặc làm triền dốc trơn nhẫy. Khổ nhất là lính pháo DK.75 đại đội 17 trung đoàn. Khẩu đội trưởng đi trước, dùng xẻng pháo đào khoét triền núi thành từng cái hốc cho bọn khiêng pháo phía sau có chỗ đặt chân. Hai thằng khiêng nòng, mỗi thằng một đoạn tầm vông. Thằng xỏ miệng, thằng xỏ đuôi, hai đoạn tầm vông oằn xuống dưới sức nặng của nòng pháo. Cứ trầy trượt như thế mà bám sườn leo lên. Bọn mang đạn buộc hai ống DK néo lại làm một, cúi đầu gằn gằn bước. Thỉnh thoảng có thằng trượt chân. Nòng pháo lăn lông lốc rồi mắc lại ở cái gốc cây nào đấy. Chúng nó lại quay xuống, nhẫn nại kéo lên không kêu một tiếng. Để đại đội DK.75 của trung đoàn vượt qua là tôi đã bị tụt lại sau tiểu đoàn 4 khá xa rồi. Hai thằng một máy, anh Ky đi cùng tôi cũng không giục không nhắc gì, cứ lùi lũi đi đằng sau. Khi các đơn vị khác nghỉ, chúng tôi vẫn cứ cắm cúi bước để theo kịp đơn vị. Trời sâm sẩm tối thì gần lên tới đỉnh. Một hơi gió tạt qua mát lạnh, gió sườn tây núi Ô răng thổi từ vịnh Thái lan. Nghĩa là sắp đổ dốc xuống núi. Trời bắt đầu mưa lất phất. Thật lạ lùng! Mới bên này cách mấy trăm mét khí hậu khô rang nóng kinh người mà sang sườn bên này thời tiết quay ngược 180 độ. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là mưa địa hình. Bây giờ đọc thêm thì mới biết hiện tượng địa lý ấy nó gọi tên là thế, chứ lúc đấy thì biết chó gì! Chỉ biết là rất mệt! Mệt đến há hốc mồm! Tôi chui vào một bụi rậm vờ đi đái rồi tháo bao gạo đổ đi 1/3 ruột tượng. Trông kỹ ra thì trong bụi ấy cũng trắng xoá gạo đổ của những thằng đi trước. Gạo nhẹ đi nhưng nỗi nhọc ngày một tăng lên. Đôi chân dường như không phải của tôi nữa mà như đi mượn. Trời tối đen. Cứ nghe tiếng vạch cây rào rào đằng trước mà chuệnh choạng lần theo. Thỉnh thoảng lại vấp phải chân những thằng đang nằm ngủ, hoặc nghỉ thò ra giữa lối, ngã lăn ra. Mồm vập vào súng đau điếng. Phát cáu lên bảo chúng mày muốn ngủ thì cứ chui vào bụi mà nằm, sao lại ngáng chân bố mày. Về sau mới biết có những thằng mệt quá ngồi nghỉ, sợ ngủ quên mất nên cứ thò chân ra đường để có ai đi sau vấp vào đánh thức rồi lại lần theo, không có lạc mất đơn vị. Mà lạc ở đây chắc chỉ có làm mồi cho hổ. Giờ thì chẳng còn phân biệt được đơn vị nào vào đơn vị nào nữa! Cứ thằng khoẻ đi trước, thằng yếu đi sau, yếu nữa thì đi sau rốt như bài ca con voi của bọn trẻ con. Giở nắm cơm vắt ra, nó đã chua loét phần bên ngoài. Tôi bẻ đôi, cạp cạp mấy miếng phần lõi rồi lẳng vào bụi. Nhai và nuốt với lý trí là để nạp thêm năng lượng thôi, chứ không hề có thấy đói. Không phải cảm giác mệt nữa! Phải nói là cảm giác tuyệt vọng đôi khi trào lên và dần dần chế ngự con người. Một cái đầu đờ đẫn trên một đôi chân rời rã, lúc nào cũng chực gục xuống. Dần dần xung quanh chẳng còn ai. Khi tôi chợt nhận ra điều ấy thì nỗi khiếp sợ bỗng ùa tới làm tỉnh cả người. Tôi dừng lại ghìm nhịp thở, lấy lại bình tĩnh nghe ngóng. Chỉ có tiếng gió thổi trong lá. Xa phía dưới kia, có tiếng lá rung ào ào từng nhịp ngắn. Chỉ có người vịn vào cây vít lại rồi buông ra lá mới rung theo nhịp ấy. Tôi tháo ruột tượng gạo định lẳng vào rừng cho nhẹ để đuổi theo, nhưng chợt nghĩ lại. Hệt truyện cổ tích của Grim, tôi mở nút ruột tượng, thả gạo dần theo lối chạy để đánh dấu đường. Tiếng động lá ngày càng gần. Lúc này không phải chỉ có chạy nữa, mà vừa chạy vừa ngồi phệt tụt dốc xuống. Vừa hết ruột tượng gạo thì va phải một đám lốc nhốc. Chúng nó chửi ầm lên. May quá! Khẩu DK.82 của đại đội 4 đây rồi! Hoá ra chúng nó cũng suýt lạc đường. Lúc ấy đã là 2h30 sáng. Cả bọn đi thêm một đoạn nữa thì gặp anh Ninh đại đội phó đại đội 4 hoả lực với thằng liên lạc đang ngồi nghỉ. Mừng vì đã gặp lại đội hình, chúng tôi bước dấn qua. Đêm tối mịt mùng. Bọn DK82 rạch ống bảo quản, tháo đạn cho vào ba lô rồi đốt ống nhựa tìm đường về đại đội 4, bất chấp lệnh cấm đốt lửa. Nhựa cháy xèo xèo, rỏ cả xuống chân bỏng rẫy. Đi một lúc nữa, tôi về tới đội hình tiểu đoàn. Chân núi chỉ còn một đoạn ngắn nữa. Võng chăng ngang chăng dọc. Tôi cũng tìm vội hai cái cây mắc võng. Quăng ba lô cái huỵch rồi leo lên gần như ngủ ngay tắp lự… Không có khái niệm thời gian, thiếp đi được một lúc tất cả đều choàng dậy. Trên núi, không thể xác định được khoảng cách, ba phát AK nổ đĩnh đạc, kiểu bắn bắt liên lạc. Tiếng nổ hồi âm qua các sườn núi, các tàn cây vọng lại ào ào rồi nhoè dần. Chúng nó nhỏm dậy, lào thào hỏi nhau :” Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. “ Chắc bọn lạc đường!”. Hai thằng trinh sát được cử quay lại tìm người bắn, xồng xộc va vào võng tôi cũng hỏi câu y hệt :” Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. Mé bụi bên kia có tiếng anh Nhương nhại đểu :” Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. Mấy thằng trinh sát thấy vô lý, im lặng luồn ngược lên. Kiểu này thì lộ mất rồi… Lúc này, phía thung lũng dưới núi, tiếng động cơ ô tô, xe xích bỗng rộ lên, vọng lại ầm ì. Nhìn rõ loáng thoáng những vệt đèn pha trong sương. Chúng nó đã chạy. Chắc chắn là lộ rồi! DK.75 và một khẩu pháo 105mm của địch bắt đầu tương đạn lên núi. Bắn kiểu mù thôi, đạn rơi cách chúng tôi rất xa. Bộ đội thu võng ào ào. Tiểu đoàn lệnh 2W lên máy, để lại toàn bộ ba lô cho bộ phận thu gom quân lạc đường trông, còn tất cả các đại đội lao xuống núi. Lúc bắt đầu vận động, toàn thân tôi đau điếng, cứng đơ, tưởng chừng không cất mình lên nổi. Được một quãng thì ổn định dần dần. Trời mờ sáng. Lội qua một hẻm nước tù sâu hoắm nước lạnh căm căm thì lên đến một cái trảng rộng. Giữa trảng là con đường đất rộng rãi đầy vết xe cơ giới. Bên kia trảng, một dãy nhà thấp lợp tranh nằm lẫn những chiếc xe vận tải, máy cẩu, máy xúc màu vàng choé. Bộ binh dàn hàng ngang tiến lên. Lính đại đội 2 nổ súng ầm ầm rồi hô xung phong. Đại đội 1 hưởng ứng rồi tiếng hô lan ra toàn đội hình tiểu đoàn. Đây là lần đầu tiên tôi thấy tiểu đoàn hô xung phong khi đánh địch. Tiếng đạn nhọn, tiếng hoả lực, tiếng hô phản hồi giữa hai vách núi trộn lẫn rền rền không dứt. Khẩu 12.8 giá súng, bắn qua đầu bộ binh đùng đùng. Cối 82 và DK quay nòng bắn theo hướng con đường chạy dọc thung lũng. Bắn đuổi là chính chứ cơ giới nó đã chạy từ đời tám hoánh. Doạ thế xem có thằng nào sợ, lạc tay lái đâm vào đâu không thôi chứ bắn thế nước mẹ gì ! Bộ đội tiểu đoàn 4 đã làm chủ căn cứ. Không tiêu diệt được được bất cứ một thằng địch nào. Thu một khẩu pháo 105mm, một khẩu DK.75mm và một số đạn cối 82. Số xe máy địch bỏ lại, toàn đồ KOMATSU Nhật bản, đã bị bắn thủng gần hết lốp, đề phòng quân ta dùng để đuổi theo truy kích. Riêng lố đạn cối 82 sản xuất tại Trung Quốc, trung đoàn ra lệnh gom huỷ ngay. Trong trận Ô Đông hồi trước, trung đoàn 1 thu được đạn cối 82 của địch mang ra xài. Khi thả đạn thì nổ ngay trong nòng súng. Hy sinh hết sức đau xót gần hết một khẩu đội! Phải công nhận bọn này với thằng thầy nó cực kỳ thâm độc! Bây giờ thì các bố mày không có dại! Nắng lên được một lúc thì gặp lính trung đoàn 1 theo đường lớn tiến vào thung lũng. Trung đoàn này cũng gần như phải hành quân suốt đêm hôm qua. Đi đường bằng nên khoẻ quân hơn, theo đường lộ vượt qua chúng tôi, mải mốt truy kích địch. Chúng tôi nghỉ lại một ngày, chờ công binh, vận tải sư đoàn lên thu hồi chiến lợi phẩm. Chỉ vì ba phát súng vô kỷ luật ấy mà tất cả bao nhiêu công giăng bẫy, leo núi vu hồi của cả ngàn con người trở thành công cốc. Về sau, quân pháp, phòng chính trị quân đoàn xuống đơn vị tôi điều tra mãi nhưng cũng không tìm ra người bắn. Âu cũng là số phận! Như Khổng Minh than với Khương Duy :” Tiếc thay! Dùng mẹo to nhưng lại thành công nhỏ!”. Hôm sau, cũng theo hướng tây bắc trong đội hình sư đoàn, chúng tôi hành quân nhưng phát triển rộng hơn về hai bên đường. Phía trung đoàn 1 đi trước, tiếng súng nổ vọng lại ầm ầm. Trung đoàn 2, trung đoàn 3 mở rộng đội hình, sục sạo sát chân núi nhằm phát hiện triệt phá những kho tàng, cơ sở hậu cần của địch. Cứ thấy ngách núi nào có đường bò hoặc nghi có địch là đơn vị rẽ vào. Đây đã là địa phận tỉnh Pursat, cách thị trấn Leach khoảng 45 km. Ngoài đường lớn chạy giữa thung lũng, trung đoàn pháo 42 kéo pháo theo bộ binh. Cần chi viện hướng nào đáp ứng hướng đó. Trong những ngày ấy, tiểu đoàn tôi tìm thấy khá nhiều những những kho hậu cần nhỏ địch phân tán trong rừng, để tạm trong những căn lán nhỏ cất vội. Kho gạo mang không hết thì đốt, vì số lượng nhỏ không bõ gọi xe sư đoàn đến chở. Kho muối thì mang ra suối đổ rồi bắn vỡ hết chum. Nhưng may nhất là vớ được một kho vải màu xanh sỹ lâm. Lính ta đang rách rưới. Quần áo đi trận đánh nhau đã tơi tả cả mà quân nhu vẫn chưa phát kịp. Nay sục được kho này như buồn ngủ gặp chiếu manh. Phải nói là trong lính có rất nhiều thằng có tài, rất nhiều hoa tay trong nhiều lĩnh vực. Bây giờ tiểu đoàn lòi ra một tay thợ may tay ngang là thằng Lễ đại liên. Với một cây kéo cùn không biết xuất xứ từ đâu, nó cứ nhìn người đến nhờ một thoáng rồi hạ kéo cắt xoèn xoẹt, khỏi cần đo đạc mất thì giờ. Thích quần ống loe hả? Có ngay! (Hồi ấy quần ống loe đang là mốt). Đây! Xong rồi! Về mà khâu lấy! Tiền công là một điếu thuốc rê. Đường kim mũi chỉ của mấy anh lính không được “mỹ thuật” cho lắm. Chỗ đột mau, chỗ đột thưa và thường là ngoằn ngoèo nhưng cũng đủ giúp chúng tôi có tấm áo che thân lành lặn. Thấy một thằng lính tử trận là điều bình thường. Nhưng nhìn một thằng lính buổi trưa ngồi võng, tự khâu lấy quần áo cho mình thì lại là một điều bất bình thường. Nghĩ lại thấy thương quá! Từ đó, cứ thấy sắc lính xanh rì sỹ lâm là trung đoàn biết ngay lính tiểu đoàn 4 khỏi cần giới thiệu. Ngoài việc may quần áo, chúng tôi còn mang vải ra đổi thuốc lá, đổi các nhu yếu phẩm cần thiết khác cho lính pháo 42. Bọn này hành quân cơ giới, cái gì cũng mang đi được. Lại hay được hậu cần tiếp tế nên cái gì cũng có, không khác gì cô hàng căng tin trong đội quân của Bonaparte. Vào một buổi chiều gần tối, trong một cái ngách núi heo hút và ẩm ướt, tiểu đoàn 4 gặp lại “cố nhân” như một sự sắp đặt của định mệnh. Vừa ở bìa rừng rúc ra mép trảng, chúng tôi bắt gặp mấy cái nhà nhỏ lợp gianh, lá còn rất mới. Xin nói là ở Miên, dù cất nhà to hay làm nhà nhỏ, kể cả những cái chòi con đều làm kiểu nhà sàn. Đại đội 1 đi đầu dừng lại ngay, chia mũi bí mật tiếp cận. Dưới gầm nhà, quanh chân cột, gần hai chục thằng địch đứng ngồi lố nhố. Chúng nó đang nấu cơm chiều. Bộ đội cứ bám từng bụi cây, lặng lẽ bò tới. Cách địch khoảng 30m thì tự nhiên hai thằng trong đám đó đứng dậy, vác 4 ống DK.75 đi xăm xăm thẳng về phía chúng tôi. Chắc chúng nó đi lấy nước ở cái suối mà chúng tôi vừa đi qua. Chính ”tréc” đại trưởng vừa gí đầu nòng súng lính xuống, định ra hiệu bắt sống nhưng không kịp. Thằng Trung B1 đã kéo một loạt AK. Hai thằng địch đổ vật xuống ngay. Liền đó, hai phát B.41 thổi tung căn nhà, nhìn rõ cả cái nồi gang với một cái đùi người bay lên không trung. Trong đám đó chỉ còn ba thằng phía ngoài vùng chạy được. Trời nhoè nhoẹt tối. Lính đại 1 bắn đuổi theo ba thằng chạy rầm rầm. Đứa quỳ bắn, đứa đứng bắn, có đứa kê súng vào chạc cây cẩn thận lấy đường ngắm, điểm xạ mãi mà vẫn thấy chúng nó chạy nhanh như hoẵng. Thế mới biết đôi khi chết được cũng khó! Trên cái nền trước kia là nhà, thịt người lẫn lòng ruột văng tung toé. Vẫn còn hai thằng bị thương không chạy được kêu lên ồ ồ! Trong mấy cái bồng rách hôi mù của bọn này, chúng tôi lôi ra được cuốn sổ ghi bài hát nhăng cuội của thằng Tư hy sinh hôm đại đội 1 tan tác. Kẻ thù đây rồi! Đời mày tàn rồi! Anh Thào nổi điên quát lính khử nốt hai thằng tù binh bị thương. Thằng khẩu đội trưởng DK.75 đại đội 17 đi phối thuộc hô lên : “Để em!”. Chúng tôi vội giạt ra khỏi hướng bắn của nó. Nhịp AK găm vào ngực và họng thằng thứ nhất, nhưng nó không chết tốt lại còn khò khè lớn hơn. Thằng thứ 2 (chỉ chừng 16 tuổi) lăn đến ôm chân thằng bắn. Nó đạp ra, nhưng đã run tay lùi lại. Ông Thào lườm nó một cái rồi rút K.59, phân phối đều vào sọ mỗi thằng hai phát vọt óc. Thân người giật giật mấy cái rồi xuội lơ, môi vẫn còn run run. Thấy chúng tôi nghệt mặt ra, anh ấy quay lại chửi :” Mẹ chúng mày! Lính với tráng!” rồi bỏ đi. Tôi đá nốt cuốn sổ của thằng Tư vào trong đống than hồng. Trả mày cuốn sổ xuống đấy mà hát vớ hát vẩn! Anh em đã thanh toán xong món nợ cho mày! Không biết có phải cái thằng đã cầm xẻng băm mày không? Cuối tháng 4 năm 79, các đơn vị địch đã tan rã gần hết. Tàn quân địch rút về thị trấn Leach. Đại bộ phận sư đoàn 9 đã tiến về đó đánh địch còn trung đoàn 2 vẫn dềnh dàng đi sau chặn hậu. Trong bản đồ quân sự, cái thung lũng lớn mà trung đoàn tôi đang hoạt động, từ đó có đường rẽ đi nhà ga Bâmnak (dân gọi là ga Bom nọ) được gọi là “mục tiêu A3”. Địa điểm này có vị trí cực kỳ quan trọng, gần như là nơi tiếp giáp của bốn tỉnh Kampong Ch’nang, Pursat, Kampong S’Peu và Kô công, nằm ở phía nam Leach theo đường chim bay chừng 25 km. Tiểu đoàn tôi cứ đi quanh đi quẩn trong các hẻm núi dường như chưa bao giờ có dấu chân người. Có những nơi vòng qua vòng lại mấy lần. Lính mà! Có lệnh đi thì cứ đi, có lệnh nghỉ thì lại nghỉ. Tàn quân Pôn Pốt bấy giờ chưa kịp phục hồi như sau năm 80. Kiếm ăn còn khó chứ đừng nói gì đến đánh đấm. Dân lành bị lùa theo tìm cách tháo chạy trở về quê cũ, nhưng chưa hiểu nên cũng tránh bộ đội Việt Nam. Thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp một đám nhỏ ở trong rừng. Họ đói. Họ rách rưới và hoang dại như một đám người rừng. Các bạn xem trên TV, thấy những em nhỏ trong nạn đói ở Phi châu bụng ỏng đít beo, ruồi bâu đầy miệng không buồn đuổi hẳn là thấy rất xúc động. Trong miền rừng sâu thăm thẳm này, chúng tôi đã gặp những cảnh tương tự. Thậm chí còn thê thảm hơn thế nữa. Đơn vị gom lại, chia cho những con người khốn khổ ấy những ruột tượng gạo bé nhỏ của người lính rồi chỉ lối cho họ ra phía đường lớn. Vào một buổi trưa, khi đang cắt rừng tìm suối, chúng tôi gặp một đám phụ nữ chừng bảy tám người nằm ngồi quanh một cái xe bò gẫy trục. Thấy bọn tôi, hai người đàn ông trong nhóm chống hai con dao quắm run run đứng dậy, chắc là để chuẩn bị chiến đấu (!). Xương sườn, xương bả, xương ống bọc dưới lớp da đen nhờ, lộ như một tiêu bản thạch cao. Họ đã gần như lả đi. Không thể nói tuổi của họ bao nhiêu khi mà tất cả sợ hãi, khổ đau, tuyệt vọng và đói khát đã in hằn trên khuôn mặt. Những khuôn mặt không có tuổi! Không biểu cảm! Và dường như ở một thế giới khác! Câu chào “Xamaki !” của cán bộ dân vận trở nên giống như một lời xa xỉ giả dối! Anh Ky móc cóc ba lô chìa nắm cơm ra. Từng ấy cặp mắt sáng lên nhìn vào. Thằng Phượng “bọ” y tá đại đội 1 (thay cho thằng Thư đi học) giằng lấy nắm cơm ấn vào chỗ cũ, gọi anh nuôi nổi lửa nấu ngay nồi cháo loãng. Cháo chín được chia ngay thành từng suất nhỏ. Lập cập giọt rơi giọt vãi, nồi cháo cũng dần hết. Thằng Phượng giải thích là nhịn đói lâu, phải ăn hạn chế như thế mới không bị sốc. Một bà mẹ cầm ca cháo đến chiếc xe hỏng, lật chiếu lá lên định bón cho thằng bé con. Nhưng cháu bé đã chết. Bên cạnh nó là một cái gùi. Trong gùi, một cẳng tay sấy khô nằm lăn lóc cạnh mấy nắm lá giang. Chứng kiến, không ai nói được một lời nào. Tất cả đều im lặng quay đi. Không phải là vì sợ, mà vì hình như thấy đau khổ quá! Một sự im lặng cùng cực…! Lúc ấy, tôi chỉ muốn rống lên thôi! Đơn vị lặng lẽ chôn cất cháu bé. Bà mẹ cũng không khóc một tiếng nào. Thêm một mất mát trong cả ngàn vạn mất mát có ý nghĩa gì! Đến chiều, cho ăn uống như bình thường xong, chúng tôi chia gạo rồi vừa dìu, vừa dẫn họ ra tận sát mé đường, nơi đã nghe tiếng ầm ì của xe pháo của trung đoàn 42. Đài kỹ thuật vô tuyến điện quân đoàn dò được tin Tà Môk, chỉ huy quân khu Tây nam đang chạy về biên giới Thái lan qua nẻo “mục tiêu A3”, phum Kâmnon. Thằng này nghe đồn bị thọt, từng gây rất nhiều tội ác đối với đồng bào ta ở An giang, Bảy núi… Hổ thọt bao giờ cũng là hổ dữ và tinh quái. Thị trấn Leach đã bị ta chiếm. Đường 56 tắc nên nó và bộ sậu cắt rừng đi đường này. Tiểu đoàn 4 đang trong thung lũng A3 được lệnh lên đường giữa đêm khuya, nhằm phum Kâmnon tiến gấp. Đơn vị bỏ đường bò, cắt rừng bí mật đến mục tiêu. Cũng may là rừng quãng này thưa nên chúng tôi hành quân không đến nỗi vất vả lắm. Đi cả đêm được gần 17 km, nhưng so với Ô Răng thì thấm tháp gì ! Đến gần vị trí xác định, tiểu đoàn hành quân chậm lại, vừa đi vừa tìm dấu vết. Đến gần vị trí trên bản đồ chỉ nơi con suối gặp đường bò, chúng tôi thận trọng cắt ra đường. Đây rồi! Vết xích xe M.113 hằn trên triền rừng còn rất mới. Thằng này khôn thật ! cũng biết bỏ đường bò để tránh tạo dấu vết. Cả đơn vị được lệnh cấp tốc đuổi theo. Đại đội 2 đi đầu, kế đến đại đội 1 rồi tiểu đoàn bộ…Đơn vị cứ theo dấu xích xe mà chạy tới. Trong khi mũi mồm tranh nhau thở, đã thoảng thấy mùi dầu máy. Hết khoảng rừng, chúng tôi ùa ra một bãi dốc thoai thoải mọc đầy cây dầu non. Cách khoảng 100m, một chiếc xe M.113 đang đỗ. Quanh chiếc xe địch đứng ngồi lố nhố. Anh Quảng tiểu đoàn trưởng định ra lệnh bí mật tiếp cận nhưng không kịp. Bọn nó đã phát hiện tình thế. Hai đại đội đi đầu không chờ lệnh nổ súng, xung phong ngay. Địch có chừng một trung đội, rẽ rừng chạy ào ào. Vừa chạy vừa quay lại bắn léc chéc. Trong số đó nhìn thấy cả mấy bóng phụ nữ mặc váy (sà rông). Khẩu đại liên trên xe không kịp bắn một phát nào. Lính đại 2 nhảy lên trên xe, quay nòng bắn rèn rẹt theo hướng địch chạy. Đuổi thế quái nào được nữa! Suốt một đêm hành quân gần hai chục cây số, lại vừa chạy vũ trang gằn một tiếng đồng hồ. Lính ta ngồi thở dốc quanh cái xe M.113 vừa thu được. Một thằng bê thùng đại liên trong xe tính thay băng đạn đang bắn sắp hết thì nặng quá trượt tay. Thùng đạn đại liên rơi bịch xuống đất văng tung nắp. Cả một khoảng vàng lấp lánh xoà ra mặt đất. “Vàng! Vàng chúng mày ơi!”. Lính ta đổ xô vào nhặt. Loáng cái đã sạch nhẵn. Anh Thào tiểu đoàn phó đến nơi thì hầu như chẳng còn dấu vết gì. Anh ấy rút K.59 cầm tay, ra lệnh những quân nhân nào đã nhặt được lập tức nộp, thu gom ngay về cán bộ chính sách tiểu đoàn. Quân đội cách mạng hay là một lũ kẻ cướp hả? Thế là mấy thằng “trúng mánh” lúc nãy ỉu xìu mang nộp lại. Cũng chẳng kê khai gì. Thì giờ đâu? Tôi biết có những thằng chỉ nộp lấy lệ mà thôi chứ chúng nó vẫn còn găm đâu đó. Thằng Cầm điếc anh nuôi nhặt một bộ vest đũi trắng mắc ngay vào người. Ai cũng biết là nó chỉ nghịch thế thôi nhưng ông Thào đang cáu, bắt nó mặc nguyên bộ mồi đó, khoác AK đứng nghiêm phơi nắng cạnh cái xe hơn 1h đồng hồ. Nhìn không ai nhịn được cười. Chiến lợi phẩm thu được trên xe ngoài những thứ như tôi vừa kể trên còn một số quần áo dân sự linh tinh, vài thùng các tông niêm phong đựng rất nhiều tài liệu. Tôi đoán đó là những tài liệu hết sức quan trọng vì cán bộ quân báo quân đoàn gần như xuống ngay lập tức hôm sau. Đơn vị có lệnh đứng chân ngay tại vị trí đó. Chiều tối, tôi đang nằm võng thì tiếng AK nổ sát sạt. Dây võng đứt đôi, đầu rơi xuống đập vào chân cọc phụ đau điếng. Thằng Hiệp híp hữu tuyến, mắc võng nằm cạnh kêu rầm lên. Nó bị một viên xuyên qua tay, mỡ lòi ra vàng như mỡ gà. Hoá ra Bình “vàng” trung đội vận tải xách súng đi bậy, thấy chúng tôi nằm hơi xa đội hình, tưởng là địch nên bắn nhầm. Anh Nhương tức, sang vận tải chửi cho một trận. “Địch đ…đâu mà địch? Địch nằm ngay đội hình tiểu đoàn bộ à? Cái thằng dát đ…loại mày thì xung quanh toàn là địch…!”. Riêng thằng Hiệp có vẻ khoái trá với cái vết thương phần mềm đó. Hôm sau theo xe quân đoàn về viện rồi biệt tích luôn. Sau chiến tranh tôi mới gặp lại nó. Sau này, chúng tôi mới biết là đã để xổng mất Tà Môk, Iêng Thirit (vợ Iêng Sary) cùng toàn bộ BCH quân khu tây nam của địch. Quá là tiếc! Giá như may mắn tóm sống được nó thì có lẽ đơn vị tôi không phải nằm đến gần 10 năm ròng rã bên đó. Và chắc chắn sẽ có Huân chương Quân công… Và bây giờ, nếu "quý ông", "quý bà" chạy re kèn trong cái ngày hôm đó, nếu như còn trên đời này hãy nhớ rằng chỉ chậm thêm một phút nữa thôi thì tôi không dám chắc điều gì sẽ xảy ra đâu! Cho đến bây giờ, chắc không chỉ mình tôi mà tất cả đồng đội đều vẫn còn hậm hụi tiếc. Sau khi chạy thoát sang Thái lan, Tà Môk trở thành bộ não tổ chức ”kháng chiến” của cái chính phủ lưu vong khốn nạn đó. Còn Iêng Thirit bày đặt đi nước này nước nọ, lên đài xuyên tạc bá láp tình hình, kêu gọi viện trợ hòng khôi phục cái thây ma thối rữa vất vưởng xứ người. Với đơn vị tôi, chúng nó chỉ là một đám ma đói chạy tụt cả váy (theo nghĩa đen), không hơn. Kinh tởm độc ác thế mà cũng có đứa tin, tuồn viện trợ cho nó. Có thể các bạn nghĩ tôi thiếu kiềm chế hay cực đoan, nhưng chúng nó đã làm anh em chiến trường K và cả đất nước Campuchia khốn khổ thêm chừng ấy năm trời. Phải chi lúc ấy chỉ thêm một tiểu đoàn đón lõng thì bọn nó sẽ tha hồ được phát thanh trước tòa án quốc tế, hoặc phát thanh trước Diêm vương. Bây giờ nói sang chuyện khác cho đỡ tức. Coi như xả stress! Dẫu có hơi lạc chủ đề nhưng nó cũng là những kỷ niệm của đời lính chiến. Trong các bạn trên diễn đàn có ai quê ở Đồng nai không? Đương nhiên, Đồng nai (ngày xưa) là một cánh đồng rất nhiều nai. Cái tên thật là giản dị. Ở vùng tác chiến của đơn vị tôi cũng có những đồng nai như thế. Đấy chính là cái thung lũng A3 và vùng phụ cận mà các bạn nhìn thấy trên bản đồ đấy! Tháng 5 năm 79, mùa mưa đã bắt đầu. Trong khi trung đoàn truy quét (lính gọi là đi càn) để làm trong sạch và củng cố địa bàn đứng chân qua mùa mưa thì đàn nai cũng tràn ra những trảng cỏ trong thung lũng tìm gặm những ngọn cỏ đầu mùa. Nai đi ăn lẫn với bò hoang. Chiến tranh liên miên, bò nhà hoặc xổng, hoặc phá bầy lâu dần thành như hoang thú. Lắm con vẫn còn đeo cả mõ lốc ca lốc cốc làm lính mình tưởng là bò của dân không dám bắn. Đến khi lại gần thì cả đàn tháo chạy. Những anh lính quê thành phố hay đồng bằng ngẩn người ra nhìn mấy con nai cao lớn nặng hàng tạ, nâu nhạt hoặc vàng hươm phi như tên bắn. Ban đêm cứ phục gần vũng nước độc lập, rìa suối thoải mà le mọc thưa dứt khoát bắn được nai. Những con nai bụng mang dạ chửa thèm muối, thường hay lần mò đến những phum hoang cũ, nơi chúng tôi đổ vãi muối dự trữ của địch ra để liếm đất mặn. Không chỉ nai, lợn rừng, mễn(hoẵng) mà thú rừng nào hầu như cũng thèm muối. Các phum hoang trở thành những địa điểm săn bắn cải thiện lý tưởng cho chúng tôi, khi mà tiếp liệu thực phẩm mùa mưa trở nên khó khăn. Có thú ăn cỏ chắc chắn có thú ăn thịt. Tôi muốn nói đến hổ - chúa sơn lâm của rừng già. Những loại tẹp nhẹp như sói, lang, beo thì không tính. Mặc dù con beo cũng rất nguy hiểm vì hành tung của nó rất bí mật và leo cây phục kích rất giỏi. Hổ vùng này rất nhiều. Chiến trường khốc liệt, xác lính địch, xác dân chết đói đầy rẫy. Thế là chúa sơn lâm quay sang đổi món, thưởng thức thịt người như một món ăn khoái khẩu. Cứ nghe tiếng súng trận, thay vì bỏ chạy cong đuôi, những con hổ tinh quái lại mò mò đến, chờ đánh chén bữa tiệc thịnh soạn đã được dọn sẵn. Trong muà mưa năm 1979, trung đoàn 2 sư đoàn 9 lập cứ dừng chân ở nhà ga Bâmnak. Tiểu đoàn 4 đóng quân trong cái phum hoang, gọi tên trên bản đồ là Kbal Tea Hean (lính phiên âm là Ba tà hiên – nghĩa là ba “người lính” trong tiếng Việt). Đây là vị trí xa trung đoàn bộ nhất, gần thung lũng A3. Rừng tự nhiên bao phủ rồi lấn cả vào những cái phum không người. Tiểu đoàn 4 và trinh sát 21 trong trung đoàn có tiếng là sát địch. Trong nhiều lần đi càn, có khi các tiểu đoàn bạn về không thì chúng tôi ít nhất cũng xơi được vài thằng. Bộ đội ta săn địch sống, còn hổ thì săn địch chết. Trong đợt truy quét địch ở phum Kà rọi (phum cam), Có hai con hổ cứ đi theo tiểu đoàn lẽo đẽo. Lúc đi sau, lúc vượt trước ngoan như bọn chó con. Chúng tôi nhận biết nó qua cái mùi khét đặc trưng và những vết chân to như cái bát ăn B.52. Nước trong dấu chân ấy còn đang vẩn đục, nghĩa là bọn nó vừa đi trước đội hình chừng 5 phút. Một lần đang ngược suối, trinh sát bỗng thấy dòng chảy đang trong bỗng có vệt lởn vởn đục. Đơn vị thận trọng bám lên thì nhìn thấy hai ông kễnh to tướng đang lon ton bì bõm vượt suối. Nhìn thấy chúng tôi, bọn nó khinh khỉnh nhìn lại cứ như bố tướng rồi đủng đỉnh ngoắt đuôi tránh đường. Có thể loài vật thông minh ấy cũng hiểu là không nên tấn công những kẻ luôn mang lại những bữa ăn ngon lành cho mình. Ban đêm, đơn vị mắc võng ngủ rừng, nó cứ à uôm xung quanh suốt. Nhưng hổ đã kêu như thế thì không đáng sợ. Lúc đấy nó đã no mồi rồi. Hoặc đang tán tỉnh nhau. Còn thấy mùi hổ mà không thấy động tĩnh gì thì hãy coi chừng. Những thằng tụt tạt phía sau đội hình hành quân bỗng trở nên mạnh khỏe hơn bao giờ hết. Đi truy quét, chúng tôi gặp rất nhiều thú nhưng không dám bắn vì sợ lộ đội hình. Ưu tiên diệt địch bao giờ cũng là số một. Những câu chuyện về thú rừng, về những chuyến săn cải thiện sẽ trở lại xen lẫn trong bài viết này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét